Cập nhật thông tin chi tiết về Chánh Tri Kiến Và Tư Duy Về Tên Gọi “Phật Thích mới nhất trên website Uplusgold.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu ni Phật là danh hiệu tri niệm, Thích-ca mâu ni Phật là cách gọi quen thuộc tên Đức Phật của nhiều người theo đạo Phật ở Việt Nam. Đây phải chăng là tên gọi đúng về vị Đạo Sư tôn kính của chúng ta?
Với tinh thần học Phật là luôn vận dụng trí tuệ để hiểu đúng Sự thật do đó việc truy tìm nguồn gốc, đối chiếu với những chánh kinh, tham khảo qua các dữ kiện lịch sử và các tài liệu khảo cổ học cùng những gì chúng ta tri kiến tu học theo đúng chánh pháp, để giúp chánh tri kiến lại và hiểu chính xác tên Đức Phật. Một ví dụ điển hình, nếu người học trò gọi tên sai tên người thầy, người cô dạy mình thì chúng ta cảm thấy thế nào? Cũng vậy, nếu chúng ta học Phật mà ngay tên vị Bổn sư mà hiểu sai, đọc sai hay là niệm sai thì sao gọi là đệ tử Phật? Vì học Phật chính là học sự thật, Đức Phật luôn khuyến khích chánh tri kiến và tư duy cho đúng. Đức Phật đã từng nhắc nhở trong Tứ y pháp “ Y trí bất quy thức”.
Đối chiếu lọc lựa lại (trạch chi) một số các kinh điển xưa tiếng Sanskrit (Bắc Ấn) và tiếng Pali (Nam Ấn) gốc đều dùng tên Cù-đàm (Gautama) hay Cồ-đàm (Gotama) để gọi tên Đức Phật. Cách gọi đó theo đúng cách gọi của thời bấy giờ và còn phổ biến ở nhiều quốc gia như châu Âu, Mỹ, Úc và châu Á ngày nay là gọi một người bằng họ của người đó, ví dụ Donald John Trump, Xi Jinping, Abe Shinzo người ta gọi là Tổng Thống Trump, Chủ tịch Xi hay Thủ tướng Abe, và họ của Đức Phật là họ Cù-đàm hay Cồ-đàm. Tên họ của Đức Phật là Siddhārtha Gautama (Sanskrit) hay Siddhattha Gotama (Pali ). Phiên âm Hán Việt là Sĩ-đạt-ta Cù đàm/Cồ đàm.
Tiêu biểu là trong Bộ Kinh thông dụng nhất, Kinh Pháp Cú, Phẩm Tạp Lục, đều sử dụng chỉ một cách gọi ngài Cồ-đàm dành cho Đức Phật:
Trích Pháp Cú phẩm Tạp Lụ
“Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Phật Đà.”
“Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Chánh Pháp.”
“Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm Tăng Già.”
“Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Thường tưởng niệm sắc thân.”
“Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui niềm bất hại.”
“Đệ tử Gotama,
Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm,
Ý vui tu thiền quán.”
Các đầu sách hiện đang có ở VN lẫn nước ngoài
Hay trong Kinh Trường Bộ phần Phạm Võng Tạng :
(Tiểu Giới)
8. Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. – Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
Sa-môn Gotama từ bỏ lấy của không cho, tránh xa sự lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh không có trộm cướp. – Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai.
Sa-môn Gotama từ bỏ tà hạnh, tịnh tu phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu,…
सिद्धार्थ गौतम [Siddhārtha Gautama/Sanskrit] <- Tên Họ của Đức Phật viết/đọc theo Bắc Ấn
शिद्धत्थ ङोतम [ Siddhattha Gotama/Pali] <- Tên Họ của Đức Phật viết/đọc theo Nam Ấn
悉達多瞿曇 [Sĩ- đạt-ta Cù đàm/Cồ đàm] <- Tên Họ của Đức Phật viết/đọc theo Hán Việt
गौतम बुद्ध [Gautama Buddha] : Đức Phật Cù-đàm <- Tên gọi đúng theo kinh điển xưa
Nguồn gốc thế gian của Đức Phật sinh quán miền Cực Bắc Ấn Độ (sát liền với ranh giới Tây Tạng/Nepal), phả hệ Thuộc bộ tộc शाक्य [Śhākya/Sanskrit ; Sākya/Pali] thuộc cao nguyên Bắc Ấn Độ.
釋迦[Thích-già/ca] <- Viết/Đọc Śhākya theo Hán Việt.
ས་སྐྱ [Sakya/Bod, Tibet] <- Tên dòng tu của Phật/Mật giáo Tây Tạng
Học Phật là luôn vận dụng trí tuệ để hiểu đúng sự, chúng ta hãy cũng thực hành chánh ngữ bằng cách gọi và tri ân Đức Phật bằng tên thật của ngài: Cồ-đàm Mâu-ni Phật.
Chúng con đồng thành kính tri ân Ngài, Bổn Sư Cồ-Đàm Mâu-ni Phật.
*Lược sử thời gian truy cứu để cùng hiểu đúng (Trạch giác) về phái Thích-ca/Thích-già/Tát-ca giáo phân phái trong phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng cùng sự biến tướng bành trướng:
Trước tiên, chúng ta sẽ cùng tìm xem sự xuất hiện của bộ tộc शाक्य [phiên âm La-tinh là Sākya, Hán Việt 釋迦, đọc là Thích-già/Thích-ca]. Tham khảo đối chiếu lại bản đồ Ấn Độ cổ thời điểm năm 1750 TCN và năm 600 TCN để hình dung. Ta xem:
Tóm lại, điều mà chúng ta – những người tu học giác ngộ chân chính, thật sự được gọi là đệ tử của Đạo sư Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm tôn kính – cần phải hiểu đúng và tư duy đúng (Chánh Tri kiến và Tư duy) về ngữ nghĩa (Chánh Ngữ) “Thích-ca” cùng sự đồng hoá Tát-ca phái/Thích-già giáo của Mật giáo Tây Tạng vào phật giáo… Đó là sự thật.
Chia sẻ:
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…
Trực Chỉ Chân Tâm, Kiến Tánh Thành Phật
Thiền Tông Trung Quốc có thể đã thành hình rất sớm từ thế kỷ thứ VI, thế nhưng chỉ bắt đầu phổ biến từ thế kỷ thứ VII, nhờ vào sáng kiến của nhà sư Huệ Năng (638-713) chủ trương một phép tu tập gọi là “Nam Phái”, dựa vào ý nghĩa của bốn câu thơ sau đây:
H.9: Thái tử Siddhartha Gautama/Tất-đạt-đa Cồ-đàm/Đức Phật sau này xuống núi, thất bại sau một thời gian tu tập khổ hạnh. Bức họa này được xem là một trong số các kiệt tác của Lương Khải. Tấm tranh có đóng dấu triện của ông, chi tiết này cho thấy là ông đã vẽ khi còn làm quan trong triều.
Trong một bài giảng của thiền sư Thích Thanh Từ tại Đà Lạt năm 2002 (chữ http://www.thientongvietnam.net/kinhsach-thike/dirs/hoavouu-07/unicode/p10.html), thuật ngữ này được gọi là . Trong quyển Dictionnaire Encyclopédique du Bouddhisme ( Tự điển bách khoa Phật giáo, tái bản lần thứ hai, 2006, tr.125) học giả Philippe Cornu cũng dịch chữ này là (coeur-esprit de l’homme). Thế nhưng theo các tự điển thông dụng thì “nhân tâm” cũng chỉ có nghĩa là lòng nhân từ và “minh tâm” thì có nghĩa là tâm trí sáng suốt. Theo Tâm lý học Phật giáo thì “nhân tâm” hay “minh tâm” cũng chỉ có nghĩa là các “hiện tượng tâm thần” hay các sự “tạo tác của tâm thức” hiện lên bên trong tâm thức, do đó thiết nghĩ chữ “chân tâm” với ý nghĩa tâm thức đích thật hay nguyên sinh có thể là hợp lý hơn chăng? Nếu tìm hiểu thêm một số các tư liệu xưa do các thiền sư trong quá khứ trước tác, thì sẽ nhận thấy “chân tâm” thường được sử dụng hơn, chẳng hạn như trong các bài thơ sau đây:
-Bài “Chân tâm chi dụng” (công dụng của chân tâm) của vua Trần Thánh Tông (1240-1290):
– Bài “Sơn cư bách vịnh ký” (một trăm bài vịnh trong lúc ẩn cư trong núi – bài vịnh số 33) của Tông BảnThiền sư (1020-1099):
Ý nghĩa của bài thơ thứ ba là “thiền sư Đạo Hạnh đã khổ công tìm kiếm khắp cõi phàm, nhưng không thấy chân tâm đâu cả, vậy xin thiền sư Trí Huyền cho biết đích thực nó ở đâu và phải làm thế nào để trông thấy nó để khỏi khổ công tìm kiếm”. Xin bái phục sự thành thật của thiền sư Đạo Hạnh, bởi vì chân tâm chỉ là một “thuật ngữ”, một “sản phẩm” của tâm thức , dù có “trông thấy” nó đi nữa cũng không nhờ thế mà “thành Phật” được. “Thành Phật” là kết quả mang lại từ một quá trình tu tập thật lâu dài.
Cũng có người giải thích rằng trong hai chữ “kiến tánh” thì chữ “tánh” có nghĩa là “Phật Tánh” hay “Phật Tính” (Buddha-svabhava), thế nhưng Phật Tánh cũng chỉ là một khái niệm đặc thù của Đại Thừa. Trên phương diện Tâm lý học Phật giáo thuật ngữ này cũng khá tương tự với một thuật ngữ khác trong một khái niệm khác cũng của Đại Thừa là “Bồ-đề tâm” (Bodhicitta). Các khái niệm này hoàn toàn không có trong Giáo Huấn của Đức Phật, Ngài không hề nói đến Phật tính hay Bồ-đề tâm của mình bao giờ cả. Phật tính hay Bồ-đề tâm trên phương diện tâm lý học Phật giáo không phải là một cái gì đó cụ thể hàm chứa bên trong mỗi chúng sinh để “trực chỉ” vào đó, mà đúng hơn chỉ là một “quá trình hình thành” (a process of becoming). Quá trình đó có thể là không có nơi những người hung ác chẳng hạn, hoặc chỉ là một vết hằn hay hạt giống của một nghiệp lành ghi khắc và tồn lưu trong tâm thức, hoặc cũng có thể chỉ là một thoáng xúc cảm từ tâm hiện lên và biến mất trong tâm thức của một cá thể.
Có người hỏi thiền sư Zhaozhou/Triệu Châu (778-897): “Con chó có Phật tính hay không?”. Triệu Châu trả lời: “Không!”, thế nhưng cũng có nhiều người bảo rằng “tất cả chúng sinh đều hàm chứa Phật tính”. Quá trình hình thành đó – tức là Phật tính hay Bồ -đề tâm cũng vậy – không bắt buộc và đương nhiên hiện hữu nơi tất cả mỗi chúng sinh. Thí dụ đối với những người đần độn, điên loạn, hung dữ, tàn ác, nham hiểm sống trong một bầu không gian ngột ngạt và căng thẳng chẳng hạn, thì quá trình hình thành đó không hề hiện hữu. Nơi các sinh vật kém tiến hóa như côn trùng, sâu bọ thì thật hết sức khó cho quá trình đó xảy ra với chúng. Đối với các con thú tiến hóa hơn như voi, ngựa, chó, khỉ… thì chúng cũng hàm chứa một chút thông minh và một khả năng xúc cảm nào đó. Người ta thường kể chuyện có những con chó bỏ ăn và tỏ ra rất đau buồn khi người chủ qua đời, mỗi ngày chúng tìm ra mộ chủ để nằm bên cạnh, hoặc cũng có những trường hợp chúng buồn khổ bỏ ăn và chết vì đói, hoặc cũng có những con chó rất can đảm xông vào đám hỏa hoạn để cứu người. Trong các trường hợp này “quá trình hình thành” của Phật tính cũng có thể hiện hữu nơi chúng, dù chỉ ở một cấp bậc rất thấp.
Hơn nữa câu phát biểu: “Trực chỉ chân tâm” tự nó đã nói lên tính cách nhị nguyên “chủ thể” và “đối tượng”: người hành thiền là chủ thể, chân tâm là đối tượng. Tính cách nhị nguyên đó đi ngược lại nguyên tắc căn bản nhất của Thiền Tông chủ trương một sự Giác Ngộ mang tính cách nhất thể vả trực giác, vượt lên trên chủ thể và đối tượng. Nếu “chân tâm” có thật một cách cụ thể để người hành thiền “trực chỉ” vào đó thì bắt buộc nó phải là một hiện tượng, và “trực chỉ” cũng là một hiện tượng, nếu đã là hiện tượng thì phải nằm trong quy luật “tạo tác trói buộc nhờ điều kiện mà có”, vậy câu “trực chỉ chân tâm” cũng chỉ nói lên một hiện tượng, một hình thức tác ý trong tâm thức, phản ảnh một sự bám víu của người hành thiền mà thôi.
Ngoài ra trên phương diện từ nguyên hai chữ “chân tâm” cũng chỉ phản ảnh một ý niệm khá mơ hồ, không nói lên được một ý nghĩa chính xác nào cả, nếu không muốn nói là còn có thể gây ra rất nhiều hoang mang. Chữ “tâm” trong tiếng Hán có nghĩa là “tim” hay”con tim”.
H.11- Các biến dạng của chữ tâm
H.11- Các cách viết tượng hình của chữ “tâm”: a) cách viết “giáp cốt” (khoảng thế kỷ XIII trước Tây Lịch, giáp cốt là loại chữ khắc trên các mu rùa và các mảnh xương dùng vào việc bói toán), b) cách viết “kim văn” (khoảng thế kỷ thứ III trước Tậy Lịch ), c) cách viết “khải thư” (bắt đầu từ khoảng thế kỷ thứ I sau Tây Lịch – tức là từ thời đại nhà Hán – đến nay)
Những Kiến Thức Cơ Bản Về Vi Khuẩn
Những kiến thức cơ bản về vi khuẩn
Những kiến thức cơ bản về vi khuẩn
1. Khái niệm vi khuẩn Vi sinh vật (micro-organism) bao gồm vi khuẩn và virus, nhưng vi khuẩn có đầy đủ đặc điểm của một vi sinh vật như khả năng tự tổng hợp chất dinh dưỡng để phát triển và nhân lên. Vi khuẩn là nhóm vi sinh vật có cấu tạo tế bào nhưng chưa có cấu trúc nhân phức tạp. Trên thực tế, vi khuẩn là những đơn bào không có màng nhân, thuộc nhóm Procaryote, có thể quan sát được bằng kính hiển vi. Nhân tế bào chỉ gồm một chuỗi AND không có thành phần protein không có màng nhân. 2. Hình thể, kích thước và cấu trúc vi khuẩn Vi khuẩn là những sinh vật đơn bào, chúng có cấu trúc và hoạt động đơn giản hơn nhiều so với các tế bào có màng nhân (eucaryote). Tuy nhiên có một vài cơ quan như vách tế bào hay chức năng di truyền và sự vận chuyển di truyền phức tạp không kém sinh vật phát triển. – Hình thể và kích thước vi khuẩn Mỗi loại vi khuẩn có hình dạng và kích thước nhất định, do vách của tế bào vi khuẩn quyết định. Hình thể và kích thước của vi khuẩn có thể quan sát và xác định được bằng phương pháp nhuộm và quan sát bằng kính hiển vi. Để xác định vi khuẩn, hình thể là một tiêu chuẩn rất quan trọng đóng vai trò định hướng, để định loại một vi khuẩn còn phải kết hợp với với các yếu tố khác như tính chất sinh vật hoá học, kháng nguyên của vi khuẩn và khả năng gây bệnh). Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, dựa vào hình thể vi khuẩn kết hợp với lâm sàng người ta có thể chẩn đoán xác định bệnh. Vi khuẩn có nhiều hình thái khác nhau: hình cầu, hình que, hình xoắn, hình dấu phẩy, hình sợi…. Kích thước thay đổi tùy theo các loại hình và trong một loại hình kích thước cũng khác nhau. So với virus, kích thước của vi khuẩn lớn hơn nhiều, có thể quan sát vi khuẩn dưới kính hiển vi quang học. Đơn vị đo kích thước của vi khuẩn là micromet (1 µm = 1/1000 mm). Kích thước và hình thể của các loại vi khuẩn khác nhau thì không giống nhau và có thể còn phụ thuộc vào điều kiện tồn tại của chúng. Dựa vào hình thể, vi khuẩn được chia ra làm 3 loại lớn. – Các cầu khuẩn: Cầu khuẩn là những vi khuẩn có hình cầu, nhưng cũng có thể là hình bầu dục hoặc ngọn nến, có đường kính trung bình khoảng 1 µm. Cầu khuẩn được chia thành một số loại sau:
+ Song cầu (Diplococci) là những cầu khuẩn đứng thành từng đôi như phế cầu (Streptococcus pneunoniae), lậu cầu (Neisseria gonorrhoeae) và não mô cầu (Neisseria meningitidis – Meningococcus). Nếu có nhiều đôi nối đuôi nhau chúng sẽ tạo thành chuỗi.
+ Liên cầu (Streptococci) là những cầu khuẩn đứng thành chuỗi.
+ Tụ cầu (Staphylococci) là những cầu khuẩn đứng thành từng đám như chùm nho như tụ cầu vàng.
Theo Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương
Vài Nét Về Cách Xưng Hô Trong Đạo Phật
Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời.Trong mối quan hệ khăng khít ấy, người theo đạo và người xuất gia tu đạo luôn giữ một mối quan hệ gắn bó, nhưng cũng chính từ đó, việc xưng hô như thế nào trong các quan hệ mang tính xã hội đó cũng đặt ra những vấn đề cần giải đáp, tránh những cách xưng hô không phù hợp, gây tâm lý e ngại, lúng túng cho người giao tiếp, thậm chí là xúc phạm không đáng có cho những người tham gia giao tiếp.
Một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay điệu. Đó là các vị đồng chân nhập đạo.Tùy theo số tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh kệ, nghi lễ.Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (đối với nam) hay Sa di ni (đối với nữ). Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều kiện về tu tập, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Đại đức (nam) hay Sư cô (nữ).Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ kheo (nam) hay Tỳ kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia.
Giới cụ túc (Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni) là giới đầy đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật để từng vị xuất gia tu tập cho đến lúc mãn đời, không phải thụ giới nào cao hơn.Việc thụ Bồ tát giới (tại gia hay xuất gia) là do sự phát tâm riêng của từng vị theo Phật giáo Bắc tông (Phật giáo Nam tông không có giới này).Nhìn chung sự sinh hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có danh xưng theo Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam như sau: Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại đức; năm 45 tuổi đời, vị tỳ kheo được 25 tuổi đạo, được gọi là Thượng tọa; năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa thượng; Đối với bên nữ (ni bộ): năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô; năm 45 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 25 tuổi đạo, được gọi là Ni sư; năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Ni trưởng.
Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo, được dùng trong việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ chức của Giáo hội, không được lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng giáo phẩm có thẩm quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp Đại lễ hay Đại hội Phật giáo, trong các giới đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.
Đối với các bậc Hòa thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở Giáo hội Phật giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại tùng lâm, Phật học viện, Tu viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại lão Hòa thượng hay Trưởng lão Hòa thượng. Điều này không thấy áp dụng đối với hàng giáo phẩm Ni. Các vị thuộc hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh vào các Hội đồng Trưởng lão, hoặc Hội đồng Chứng minh tối cao của các cấp Giáo hội.Tuy nhiên, khi ký các thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức đôi khi vẫn xưng đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn để biểu hiện sự khiêm nhường theo đúng tinh thần Phật giáo.
Giữa các vị xuất gia, thường xưng con hay xưng pháp danh, pháp hiệu và gọi vị kia là thầy hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách theo nguyên tắc bên ni trọng bên tăng. Tuy nhiên những vị tăng trẻ tuổi vẫn tôn xưng các vị ni lớn tuổi mà xưng con gọi thầy hay phẩm trật với các vị ni. Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng thầy hay sư phụ, Tôn sư, Ân sư.Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với sư phụ là sư thúc, sư bá.Trong đạo Phật có các danh xưng đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo giáo pháp).Các danh xưng tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo Phật.
Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quý vị cư sĩ phật tử tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng thầy hay cô nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni và thường xưng là con. Trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới tôn kính người thụ nhiều giới hơn chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật, trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, mong đạt trạng thái niết bàn vô ngã theo lời Phật dạy.Có những vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi qui y Tam bảo, thụ ngũ giới (tam quy, ngũ giới), mỗi vị cư sĩ phật tử tại gia có một vị thầy truyền giới cho mình.Vị ấy được gọi là thầy Bản sư.Cả gia đình có thể cùng chung một vị thầy Bản sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng thầy.
Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn hệ phái Phật giáo Nam tông chỉ có tăng, không có ni nên danh xưng chung đối với các vị Nam tông là sư. Một điều chú ý là đối với Phật giáo Nam tông, thường không dùng danh xưng thầy để gọi các nhà sư.Việc xưng hô không đúng phẩm vị của tăng ni,xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng, tất cả đều nên tránh bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm, dưỡng tính.
Khi tiếp xúc với cư sĩ, phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là thầy, hay cô và gọi quý vị là đạo hữu, hay quý đạo hữu.Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp danh, có kèm theo hoặc không kèm theo tiếng xưng hô của thế gian. Cũng có khi chư tăng ni, tùy theo tuổi tác của phật tử xuất gia, mà gọi theo cách gọi của thế gian và xưng là nhà chùa. Đây là một cách nói gần gũi thường được sử dụng trong các sinh hoạt, giao tiếp hàng ngày chứ không phải trong các nghi thức hay các văn bản có tính chất hành chính. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là quý phật tử,từ này không sai, nhưng chưa thật chính xác bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng là phật tử, chứ không riêng tại gia là phật tử mà thôi.Việc một phật tử xuất gia ít tuổi gọi một phật tử tại gia nhiều tuổi bằng con và xưng thầy thực là không phù hợp.Không nên gọi như vậy để tránh sự tổn đức và không nên bất bình khi nghe như vậy để tránh bị loạn tâm.Theo truyền thống phương Đông tuổi tácrất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia.
Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, một cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ, như cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày.Danh xưng cư sĩ thường dùng cho phật tử tại gia, đã qui y Tam bảo, thụ ngũ giới. Những vị cư sỹ phát tâm tu tập và góp phần hoằng pháp còn được gọi là Ưu bà tắc (thiện nam, cận sự nam) hay Ưu bà di (tín nữ, cận sự nữ).
Trong cách gọi dân gian, Phật giáo cũng sử dụng các danh xưng như: sư chú, sư bác, sư ông, sư bà hay sư cụ. Điều này cũng có sự phân biệt nhất định. Sư chú dành để chỉ những người xuất gia ở chùa nhưng chưa được thụ giới; sư bác chỉ những người đã được thụ giới Sa di hay Sa di Ni; sư ông, sư bà để chỉ những người đã được thụ giới tỷ kheo và tỷ kheo Ni. Ngoài ra, đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập gia đình trước khi vào đạo, vẫn phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho nên cách xưng hô cũng không khác.Tuy nhiên để tránh việc gọi một người đứng tuổi xuất gia là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻ tuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là sư chú, hay sư bác. Bên cạnh đó, các xưng hô trong đạo như sư ông, sư bà, sư cụ cũng thường được dành để gọi vị sư phụ của sư phụ mình, hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao, thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuất gia. Một danh xưng nữa là pháp sư thường dành cho các vị xuất gia tăng hay ni có khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp độ sanh. Ngoại đạo thường hay lạm dụng danh xưng này để chỉ các ông bà thầy pháp, thầy cúng.
Danh xưng sư Tổ được dành cho chư tôn đức lãnh đạo các tông phái còn tại thế, danh xưng Tổ sư được dành cho chư tôn đức đã viên tịch, được hậu thế truy phong vì có công lao trọng đại đối với nền đạo.Đối với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ ở một tự viện, người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quý ngài, tránh gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu để tỏ lòng tôn trọng, kính ngưỡng.
Đức Phật đã dạy “hằng thuận chúng sinh”, nghĩa là nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong đời, bao gồm những người đang tu trong đạo. Các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, thực hành hạnh ái ngữ, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ.Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi.
Nhất niệm sân tâm khởi,
Bách vạn chướng môn khai.
Nhất niệm sân tâm khởi,
Thiêu vạn công đức lâm.
Nghĩa là: Một lần nghĩ đến sự sân hận, trăm điều chướng nghiệp sẽ nảy sinh, một lần nghĩ đến sự sân hận, tiêu tan mọi công đức tu tập. Do đó, trong cách xưng hô nên làm cho mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc, thoải mái, hợp với tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhặt. Trong đạo Phật, cách xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan trọng bất biến, không suy chuyển, đó là phẩm hạnh, phẩm chất, đức độ, sự nỗ lực, cố gắng tu tâm dưỡng tính không ngừng cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh giác ngộ và giải thoát, đối với Phật tử tại gia cũng như xuất gia.Đó cũng chính là một phần ý nghĩa của “tùy duyên bất biến” trong đạo Phật vậy./.
Bạn đang xem bài viết Chánh Tri Kiến Và Tư Duy Về Tên Gọi “Phật Thích trên website Uplusgold.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!