Cập nhật thông tin chi tiết về Người Con Ưu Tú Của Dân Tộc Việt mới nhất trên website Uplusgold.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 – 19-5-2020) – người con ưu tú của dân tộc Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa được thế giới ngưỡng mộ và tôn vinh – là dịp để chúng ta hiểu rõ hơn tầm vóc tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của một con người suốt đời toàn tâm toàn ý cống hiến cho đất nước, cho nhân dân; là dịp để chúng ta khẳng định tâm nguyện thực hiện những điều Người còn dặn lại trong sự nghiệp phát triển đất nước và con người hôm nay và mai sau.
Truyền thống tốt đẹp kết tinh trong một con người
Hồ Chí Minh(1) sinh ra và trải qua tuổi niên thiếu trên quê hương Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nơi dải đất miền trung phải chịu đựng khí hậu khắc nghiệt với những đợt gió nóng, những trận mưa bão lớn, thường xuyên chịu cảnh hạn hán rồi lại ngập úng, lũ lụt. Sống trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, người dân xứ Nghệ đã tự rèn cho mình một truyền thống quý báu. Đó là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, là tinh thần đoàn kết chiến đấu kiên cường trong chống xâm lược và kiên trì bền bỉ chống thiên tai, là tình làng nghĩa xóm đậm đà bền chặt.
Sinh ra và lớn lên trên vùng văn hóa Nghệ – Tĩnh, Hồ Chí Minh được kế thừa và hấp thụ những tinh hoa của truyền thống dân tộc và quê hương ngay từ tuổi thiếu niên, từ trong gia đình. Tuổi thơ Hồ Chí Minh đã chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, cuộc sống ngày càng cơ cực của người dân Nghệ – Tĩnh, chứng kiến những sự khủng bố đẫm máu và áp bức bóc lột ngày càng nặng nề của chính quyền thực dân và tay sai. Trong những năm tháng Người lớn lên trên mảnh đất quê hương, tinh thần bất diệt của khởi nghĩa Hương Khê vẫn còn vang vọng. Ý chí đấu tranh quật cường và tinh thần hy sinh anh dũng của các chí sĩ trong phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục cùng các phong trào yêu nước kháng Pháp như ngọn lửa âm ỉ vẫn cháy trong lòng những người yêu nước Việt Nam.
Sự hun đúc của truyền thống đất nước, quê hương, gia đình lại được phát huy bởi những tố chất cá nhân, riêng của Hồ Chí Minh. Đó là một nhân cách giàu lòng yêu nước, thương yêu nhân dân; một vốn kiến thức văn hóa Đông – Tây được tích hợp phong phú và sự nhạy bén trước những tri thức mới. Sự hiểu biết của Hồ Chí Minh được củng cố, động viên bởi một ý chí kiên cường và nghị lực phi thường trước những khó khăn thử thách của một người thanh niên đầy hoài bão. Tất cả những điều đó là nền tảng tinh thần vững chắc để Hồ Chí Minh vượt qua những chặng đường đầy chông gai thử thách, quyết tâm thực hiện lý tưởng của mình: Giành độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Mặc dù theo học chữ Hán từ nhỏ nhưng Hồ Chí Minh sớm tiếp xúc và bị thuyết phục bởi những tư tưởng tiến bộ của cuộc Cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Và Người đã đặt câu hỏi: Tại sao người Pháp làm được như vậy? Hồ Chí Minh thấy rằng: “Phải đi ra ngoài, xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Khi nhiều người đang hướng sự ngưỡng mộ của mình về phương Đông với Nhật Bản, một đế quốc mới ở châu Á đã chiến thắng nước Nga sa hoàng năm 1905, hay ngưỡng vọng bác sĩ Tôn Dật Tiên với chủ nghĩa Tam dân của ông đang làm rung chuyển Trung Hoa bằng cuộc Cách mạng Tân Hợi 1911, thì Hồ Chí Minh tìm đường sang phương Tây, đến nước Pháp, nơi đã tuyên bố về quyền “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” để tìm hiểu thực chất đó là gì.
Đi tìm con đường cứu nước
Ngày 5-6-1911, khi ra đi tìm một con đường mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ nung nấu một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Đối với Hồ Chí Minh, mọi con đường đều không có ý nghĩa gì nếu không nhằm mục đích đem lại độc lập – tự do cho dân tộc, quyền làm người và ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân là nguồn sức mạnh nâng bước chân, là ngọn lửa hồng sưởi ấm tinh thần Hồ Chí Minh trên những chặng đường bôn ba. Trong những năm 1911-1917, Hồ Chí Minh (với tên là Văn Ba) đã thật sự sống cuộc sống của một người lao động trên nhiều đất nước ở các lục địa Á, Âu, Phi, Mỹ. Qua những năm tháng đó, Hồ Chí Minh đã tích lũy cho mình một vốn sống thực tiễn phong phú, đồng thời qua đó Người cũng thu nhận thêm nhiều tri thức từ những nền văn hóa của các dân tộc. Tất cả những điều đó đã hun đúc, rèn luyện nên bản lĩnh của một nhà cách mạng chuyên nghiệp sau này. Hồ Chí Minh trở thành một trong số ít những chiến sĩ cách mạng giàu kinh nghiệm thực tiễn nhất của phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa những năm đầu thế kỷ 20.
Trong bóng tối dày đặc của chủ nghĩa thực dân, từ một người yêu nước nhiệt thành, Hồ Chí Minh đã đi một con đường hoàn toàn khác với những con đường các nhà cách mạng “đàn anh” đã đi. Kết quả của hoạt động thực tiễn và việc tiếp nhận lý luận ban đầu càng làm sáng tỏ hơn con đường để cứu dân tộc mà Người đang đi tìm và dẫn tới Quyết định quan trọng thứ hai sau quyết định sang phương Tây tìm đường cứu nước. Đó là quyết định đưa cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng của Lê-nin.
Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh đã vượt trước những quan niệm cứu nước đương thời. Hồ Chí Minh không đi theo lối mòn bảo thủ mà có tính phê phán, hướng tới mục tiêu cách mạng triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Tư tưởng yêu nước truyền thống, khát vọng cứu nước mang thêm những yếu tố mới đi theo Hồ Chí Minh trong suốt những năm bôn ba đã gặp chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Sự gặp gỡ này phản ánh những nhu cầu đang đặt ra của lịch sử là xác định một con đường đúng đắn cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam nói riêng và các dân tộc thuộc địa nói chung. Nghiên cứu, tiếp thu những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác – Lê-nin về cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và bổ sung những luận điểm mới để học thuyết này phù hợp với thực tiễn phong trào cách mạng thuộc địa và Việt Nam. Người cho rằng cần phải bổ sung vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin những vấn đề của các dân tộc phương Đông mà trong thế kỷ 19 do những điều kiện lịch sử, Mác và Ăng-ghen chưa thể có được hoặc chưa phát triển một cách đầy đủ.
Những điểm cần bổ sung đó là thực tiễn của phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân xâm lược ở các nước phương Đông và Việt Nam nói riêng. Người đã phát hiện ra nội dung lớn mà các tác phẩm lý luận thời đó ít đề cập: Đó là sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính và tinh thần yêu nước tiềm tàng trong mỗi cá nhân được bồi đắp lâu dài từ truyền thống. Sức mạnh này thể hiện sinh động ở Việt Nam trong các phong trào chống Pháp xâm lược, thu hút mọi lực lượng xã hội, mọi tầng lớp, giai cấp. Hồ Chí Minh cho rằng điều cốt yếu là phải huy động sức mạnh của toàn dân tộc.
Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” và nếu phát động – phát huy được nguồn “động lực lớn” đó thì công cuộc giải phóng dân tộc mới giành được thắng lợi.
Với luận điểm nhất quán “Cách mệnh muốn thành công trước hết phải có Đảng cách mệnh”; “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”, Hồ Chí Minh đã từng bước chuẩn bị về chính trị và tư tưởng, huấn luyện cán bộ và xây dựng tổ chức – những tiền đề cần thiết để hình thành một Đảng cách mệnh chân chính, vững mạnh và đủ khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc. Những cán bộ cách mạng trẻ tuổi đầy nhiệt huyết được Người huấn luyện ở Quảng Châu trở về nước hoạt động hăng hái, sôi nổi đã trực tiếp dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của cuộc đấu tranh ở Việt Nam trong những năm nửa sau thập niên 1920. Các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam đã ra đời trong cuộc đấu tranh đó. Cuối tháng 12-1929, Hồ Chí Minh rời Xiêm đến Hồng Công (Trung Quốc) với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đại biểu dự Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt; Điều lệ tóm tắt, Chương trình vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo. Những văn kiện này hợp thành nội dung Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được khẳng định
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo đã nêu được những vấn đề cơ bản về đường lối của cách mạng Việt Nam, đó là tuyên bố về sự lựa chọn con đường phát triển cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam khi mới ra đời. Nhiệm vụ giành lại độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, nô lệ là nhiệm vụ mang ý nghĩa cấp bách, sống còn được đặt trước nhiệm vụ đấu tranh giai cấp. Trong cuộc đấu tranh này Đảng cần tập hợp được khối lực lượng đông đảo nhất của toàn dân, huy động được sức mạnh đoàn kết to lớn nhất của dân tộc và thời đại mới bảo đảm giành được thắng lợi.
Vì nhiều nguyên nhân nên đã có một giai đoạn những luận điểm sáng tạo về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh đã bị Quốc tế Cộng sản coi là “hữu” khuynh, dân tộc chủ nghĩa, quốc gia chủ nghĩa, coi nhẹ đấu tranh giai cấp… Vượt qua những thử thách, Hồ Chí Minh kiên trì giữ vững quan điểm, tư tưởng của mình. Trong bối cảnh có nhiều biến động sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hồ Chí Minh tìm đường về nước và từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941) dưới sự chủ trì của Người, Hồ Chí Minh đã trực tiếp cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Kể từ đó, “tư tưởng của Người và đường lối của Đảng là thống nhất và có những bước phát triển mới, toàn diện, hoàn chỉnh, đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam” (2). Ngày 19-5-1941, giữa vùng núi rừng Pắc Bó (Cao Bằng), theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh ra đời. Đây là kết quả của một quá trình vận động cách mạng. Tư tưởng độc lập, tự do, chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (năm 1930), trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, trong Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh đã được hiện thực hóa ngày càng mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh. Đảng đã đoàn kết được đông đảo quần chúng, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm mục tiêu cao nhất: Độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam cũng mang về những nhận định mới về tình hình thế giới và đề ra sách lược đối ngoại cho cách mạng Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai đang lan rộng. Người đã nhận định cuộc chiến tranh sẽ tạo những cơ hội quý báu cho công cuộc giải phóng của nhân dân Việt Nam. Người cũng trực tiếp xây dựng nhiều mối quan hệ với các nước đồng minh chống phát-xít, tạo ra những tiền đề cho việc xác lập vị thế của nước Việt Nam độc lập trên trường quốc tế sau này.
Theo lời kêu gọi của Người, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đứng lên tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, giành Chính quyền về tay nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã phát huy sức mạnh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là một trong những nhân tố quyết định làm nên thắng lợi trọn vẹn, nhanh chóng và ít đổ máu của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (3). Bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ của Người đã mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam – Kỷ nguyên Độc lập – Tự do.
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
Khoảng thời gian từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời – ngày 2-9-1945 – đến khi cả dân tộc Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ bảo vệ nền độc lập mới giành được – ngày 19-12-1946 – là một giai đoạn lịch sử khá đặc biệt. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng trong điều kiện vừa có hòa bình vừa phải kháng chiến, vừa đấu tranh chính trị, ngoại giao vừa phải tích cực kìm chân quân Pháp xâm lược ở phía nam, vừa phải chống lại những âm mưu phá hoại và lật đổ của bọn phản động ở phía bắc, vừa phải chăm lo bồi dưỡng sức dân, xây dựng cuộc sống mới, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt.
Trước tình thế khó khăn, hiểm nghèo của chính quyền cách mạng non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu Dân tộc trên hết – Tổ quốc trên hết, đoàn kết toàn dân, huy động tối đa mọi nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc để bảo vệ nền độc lập mới được giành lại. Khối lực lượng đại đoàn kết này là nguồn sức mạnh to lớn để chúng ta bảo vệ và xây dựng thành công chính quyền cách mạng. Toàn thể nhân dân Việt Nam đã đoàn kết, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất cả đều hướng về cuộc đấu tranh của dân tộc và bằng cách này hay cách khác đã đóng góp phần mình cho cuộc đấu tranh đó. Thành quả hiện hữu của sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc những năm 1945-1946 của Đảng là chính quyền cách mạng đứng vững giữa vòng vây kẻ thù, khối đại đoàn kết toàn dân trong các tổ chức quần chúng được mở rộng và củng cố trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt, quân đội nhân dân được xây dựng ngày càng lớn mạnh. Thành quả không thể đo đếm bằng số, không nhìn thấy được bằng mắt là tinh thần sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc đã được thổi bùng lên và đưa vào cuộc chiến đấu.
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng”. Nhưng khi những thế lực thực dân hiếu chiến Pháp quyết đặt lại ách cai trị thực dân lên đất nước Việt Nam, một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cương quyết khẳng định quyết tâm của cả dân tộc: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (4). Theo Lời kêu gọi của Người, mỗi người Việt Nam yêu nước đều sẵn sàng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cả dân tộc vững vàng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với niềm tin thắng lợi dù có phải trải qua nhiều gian khổ hy sinh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập là sự tiếp nối của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Hai nhiệm vụ Kháng chiến và Kiến quốc nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ tàn tích phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, “làm cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất, dân chủ và tự do, phú cường, tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đó là nhiệm vụ của Đảng Lao động Việt Nam được nêu trong Chính cương của Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ II, tháng 2-1951.
Không chỉ góp phần hoạch định đường lối, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn góp phần to lớn trong việc tổ chức thực hiện đường lối kháng chiến. Người đưa ra sáng kiến phát động phong trào Thi đua ái quốc, biến quyết tâm và tinh thần hăng hái của toàn dân thành hành động để khắc phục những thiếu thốn về vật chất, biến đường lối kháng chiến của Đảng thành hành động chiến đấu, lao động của hàng triệu quần chúng trên tất cả các mặt trận để đẩy nhanh kháng chiến đến thắng lợi.
Tư tưởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được tiếp tục phát triển, hoàn thiện và phát huy tác dụng dẫn đường định hướng cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, trở thành cơ sở cho đường lối kháng chiến của Đảng, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Sau Hiệp định Genève (tháng 7-1954), Mỹ dần thay chân Pháp để thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Dân tộc Việt Nam bước vào cuộc đối đầu với thế lực đế quốc hùng mạnh nhất để bảo vệ phẩm giá dân tộc và những giá trị cao đẹp của mình. Đó là những quyền cơ bản của dân tộc, của con người mà không một thế lực nào có thể xâm phạm.
Ý chí độc lập tự do cuối cùng sẽ chiến thắng mọi âm mưu và lực lượng xâm lược tàn bạo. Đó là niềm tin mãnh liệt của Hồ Chí Minh vào cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Năm 1966, Mỹ leo thang chiến tranh, liên tục tăng quân ở chiến trường miền nam, tăng cường ném bom phá hoại miền bắc. Từ Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyết tâm của dân tộc Việt Nam tóm tắt trong một dòng nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trước lúc đi xa, Người đã viết những dòng cô đọng nhất gửi gắm tâm huyết của mình về chặng đường cách mạng sắp tới của dân tộc. Tư tưởng xuyên suốt nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam phải được tiến hành đến thắng lợi cuối cùng. Ý chí sắt đá ấy, niềm tin vững chắc ấy và quyết tâm không gì lay chuyển nổi ấy đã được Người viết trong bản Di chúc thiêng liêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy thắng lợi tất yếu của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Cái nhìn lạc quan của Người phản ánh trí tuệ sáng suốt, kinh nghiệm dày dạn của một nhà cách mạng tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh vô địch của nhân dân, vào sự chiến thắng tất yếu của chính nghĩa, nhân đạo và những giá trị phẩm giá con người cao quý trước chiến tranh phi nghĩa bạo tàn, phản nhân văn, phản tiến bộ.
Chặng đường 21 năm đấu tranh kiên cường, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước đã ghi dấu đường lối chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) đã khẳng định: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay, mãi mãi gắn liền với tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cho sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, làm rạng rỡ non sông đất nước ta, cho chúng ta và các thế hệ mai sau những di sản bất diệt” (5).
Còn tiếp…………………
Chú thích: (1) Từ tên Nguyễn Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh, Người còn có nhiều tên gọi, bí danh khác nhau. Chúng tôi xin được dùng tên chính của Người là Hồ Chí Minh. (2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) – Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam – Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 37. (3) Hồ Chí Minh (2011) – Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, Tập 4, tr. 3. (4) Hồ Chí Minh (2011) – Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr. 534. (5)Đảng Cộng sản Việt Nam (2000) – Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, Tập 37 , tr. 474; 475.
Theo: Báo Nhân dân điện tử
Chủ Tịch Hồ Chí Minh: Anh Hùng Kiệt Xuất Của Dân Tộc Việt Nam!
Ngày 19 tháng 5 năm 1890, cậu bé Nguyễn Sinh Cung chào đời, đất nước hình chữ S được đón chào một nhân tài từ mảnh đất xứ Nghệ. Quả thực, về sau Nguyễn Sinh Cung (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã trở thành một lãnh tụ thực thụ của cách mạng Việt Nam, Người đã có những đóng góp to lớn về nhiều mặt đối với cách mạng Việt Nam nói riêng và trong cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nghị quyết số 24C/18.65 do Đại hội đồng UNESCO thông qua tại khóa họp lần thứ 24 (11/1987) đã khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khắc sâu trong tâm trí của mọi thế hệ người Việt Nam với tài trí, đạo đức, nhân cách và những công lao trong cả tiến trình cách mạng của dân tộc. Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924 Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã tổ chức và trực tiếp giảng bài cho các lớp huấn luyện đào tạo những thanh niên Việt Nam để trở về quê hương phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những bài giảng của Người được tập hợp in thành sách “Đường Cách mệnh” xuất bản nǎm 1927. Đây chính là “cẩm nang” về những vấn đề lý luận căn bản để thành lập một tổ chức đảng cộng sản ở trong nước. Tháng 6 nǎm 1925, trên cơ sở số cán bộ được huấn luyện, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội cho ra tờ báo Thanh Niên làm nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu về chủ nghĩa Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga, góp phần quan trọng vào việc xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 03-02-1930, tại Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc), Người triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau cao trào 1930-1931, với sự khủng bố gắt gao của thực dân Pháp, phong trào cách mạng trong nước bị lắng xuống. Nguyễn Ái Quốc vừa học tập, nghiên cứu ở nước ngoài, đồng thời tiếp tục theo dõi, chỉ đạo hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng trong nước. Khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, ngày 12 tháng 8 nǎm 1945, Hồ Chí Minh (tên được đổi từ đầu năm 1942) cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngày 19 tháng 8, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, ngày 23 tháng 8 thắng lợi ở Huế, ngày 25 tháng 8 thắng lợi ở Sài Gòn. Sáng ngày 02 tháng 9 nǎm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được khai sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân đấu tranh xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền non trẻ. Để giữ vững thành quả cách mạng, Người đã đề ra những biện pháp cấp thiết để xây dựng hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương tới địa phương, một chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Trước dã tâm của thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước. Ngày 19 tháng 12 nǎm 1946, Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và được truyền đi trên khắp cả nước trên làn sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam. Trong những năm tháng này, Người viết tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” (1947), khởi xướng phong trào Thi đua yêu nước (1948)…nhằm rèn luyện và động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đứng lên thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Ngày 06 tháng 12 nǎm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Người chỉ thị cho Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà còn đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân toàn dân, toàn Đảng, phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Với sự nỗ lực của quân và dân ta, Chiến dịch Điện Biên Phủ đã diễn ra và hoàn toàn thắng lợi, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp nghị Giơ-ne-vơ nǎm 1954, chấp thuận những điều khoản có lợi cho 3 nước Đông Dương. Bước sang giai đoạn mới của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam là thi hành đúng Hiệp nghị Giơ-ne-vơ; củng cố hoà bình, đấu tranh để thực hiện thống nhất đất nước bằng Tổng tuyển cử tự do. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ và tay sai cố tình phá vỡ những điều khoản của Hiệp định, leo thang chiến tranh hòng chiếm trọn luôn cả miền Bắc. Đến tháng 02 nǎm 1965, Mỹ đã mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc và ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Tháng 7 nǎm 1966, chúng dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên nhân dân Việt Nam vượt qua hy sinh gian khổ và kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trong những thời điểm cách mạng khó khăn nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ về trí tuệ, là điểm tựa tinh thần động viên toàn Đảng, toàn dân thực hiện nhiệm vụ vừa xây dựng, phát triển kinh tế, vừa chiến đấu anh dũng để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vào 9 giờ 47 phút, ngày 02 tháng 9 nǎm 1969 (ngày 21 tháng 7 Âm lịch), trái tim của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng đập, để lại nỗi tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Người ra đi khi sự nghiệp cách mạng nước nhà còn dang dở, đất nước hai miền vẫn còn chia cắt. Song Người vẫn tuyệt đối tin Đảng, tin vào sự nghiệp cách mạng của Nhân dân. Vì thế, từ những năm trước đó, chuẩn bị cho cuộc “ra đi” của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc ghi chép lại những tâm nguyện cho Đảng, cho toàn thể nhân dân ta tiếp nghiệp thực hiện. Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh hi sinh cho sự nghiệp cách mạng dân tộc, cho nền hòa bình của nhân loại. Công lao của Người đối với nhân dân Việt Nam và nhân loại là vô bờ bến, giấy mực khó có thể ghi chép hết, chỉ có thể lấy nền độc lập, thống nhất của đất nước Việt Nam làm minh chứng. Đúng như tâm nguyện cả đời của Người: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đã hơn 50 mùa Xuân chúng ta không còn Bác. Tuy nhiên, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người để lại là những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân chúng ta tiếp tục học tập, vận dụng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ để tiến tới con đường phát triển bền vững.
Theo tuyengiaokontum.org.vn
BBT trang thông tin điện tử
Anh Hùng Dân Tộc
1. Tiểu Sử
Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn.
Anh hùng dân tộc – Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn
Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn.
Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải… Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì nước.
Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng… đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng “cột đá chống trời”. Ông đã soạn hai bộ binh thư: “Binh thư yếu lược”, và “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông: “… Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương…”. Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc “đại bút”.
Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi:
Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?
Ông đã trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước:
Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.
Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) “Bình Bắc đại nguyên soái” Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ…
Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại vương.
Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam.
2. Vị anh hùng được nhân dân phong thánh
Dân gian có câu: “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ” là để nói về hai lễ hội lớn về hai vị thánh: Đức thánh Trần Hưng Đạo và Đức thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Đền Kiếp Bạc
Đền Kiếp Bạc là nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh. Lễ hội được tổ chức vào 18.8 âm lịch hàng năm. Khu di tích có Tam Quan (Linh Môn), Thành các, Tiền tế, Hậu cung, núi Nam Tào, núi Bắc Đẩu, núi Dược Sơn… in đậm dấu ấn về một thời lịch sử oai hùng “Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng. Lục Đầu vang dội tiếng quân reo”.
Đền Kiếp Bạc
Đất nước thanh bình Trần Hưng Đạo vẫn sống ở Kiếp Bạc. Ngày 20.8 năm Canh Tý (nhằm 05.9.1300) Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất tại tư dinh. Trước khi qua đời ông đă dặn lại vua Trần “Khoan thư sức dân là kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Sau khi ông mất, triều đình phong tặng ông là Thái sư Thượng phụ Quốc công tiết chế Nhân võ Hưng Đạo Đại Vương và cho lập đền thờ ông trên nền Vương phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Nhân dân Việt Nam suy tôn gọi ông là Đức Thánh Trần, được công nhận là một trong mười vị tướng tài của thế giới.
Hội mùa thu ở Côn Sơn – Kiếp Bạc là kỳ lễ hội chính kỷ niệm ngày mất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, đồng thời người đi lễ cũng đến Côn Sơn thắp hương tưởng niệm anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi tạo thành sự hợp nhất giữa hai di tích trong kỳ lễ hội.
Lễ “giỗ trận” Bạch Đằng
Ở xã Yên Giang, Yên Hưng, Hà Nam có đền Trần Hưng Đạo, là nơi thờ người anh hùng dân tộc với sự kiện chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại năm 1288. Ngày nay đền Trần Hưng Đạo trở thành trung tâm lễ hội Bạch Đằng.
Theo sử sách: sáng ngày 09.4.1288 (tức mồng 8 tháng 3 năm Mậu Tý) chính tại nơi đây, bên sông Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã lập nên chiến công chói ngời nhất lịch sử nước ta: tiêu diệt và bắt sống hàng vạn tên xâm lược, hàng trăm chiến thuyền, bắt sống Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, đập tan ý đồ xâm lược của quân Nguyên Mông. Ghi nhớ chiến công, tưởng nhớ người anh hùng Trần Hưng Đạo, dân làng An Hưng (nay là Yên Giang) lập đền thờ Ngài bên dòng Bạch Đằng.
Di tích đền Trần Hưng Đạo – miếu Vua Bà
Trần Hưng Đạo sống là người, thác là thánh. Trong đền này còn giữ được nhiều sắc phong của các vua nhà Nguyễn như Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân phong Trần Hưng Đạo làm Thượng đẳng thần. Các đạo sắc đều ca ngợi chiến công, oai linh, đức độ giúp dân giúp nước của Trần Hưng Đạo. Sắc của vua Tự Đức năm thứ 6 (1854) có đoạn: “Trần Hưng Đạo Đại Vương có công giúp nước, cứu dân, oai linh lẫm liệt, cảm ứng cả trời đất, được nhân dân sùng bái”…
Bên cạnh đền Trần Hưng Đạo là miếu Vua Bà, tương truyền có từ thời Trần. Người dân lập miếu để thờ bà hàng nước đã cho biết giờ thủy triều lên xuống để danh tướng nhà Trần liệu kế đánh giặc. Thú vị là đền thờ của một bà hàng nước lại được người dân suy tôn là Vua Bà và được đặt bên cạnh bậc vương gia Trần Hưng Đạo được suy tôn là Thánh!
Hàng năm đến ngày lễ hội của đền Trần, nhân dân trong vùng và các nơi lại kéo về dự hội, thắp hương tưởng nhớ công ơn của Trần Hưng Đạo mà dân gian từ lâu đã tôn kính gọi là Đức Thánh Trần. Ngày hội chính của đền là mồng 8 tháng 3 âm lịch, là ngày diễn ra chiến thắng Bạch Đằng năm xưa, người dân Yên Hưng vẫn gọi đây là ngày “giỗ trận”. Ngày “giỗ trận” có cả phần lễ và phần hội: đu quay, chọi gà, đánh vật, cờ người, cờ tướng… và, tất nhiên, không thể thiếu môn đua thuyền trên sông Bạch Đằng. Dân Hà Nam, từ già đến trẻ nô nức đi xem hội.
Di tích đền Trần Hưng Đạo – miếu Vua Bà đã được Bộ văn hoá thông tin xếp hạng là di tích lịch sử theo quyết định số 100/HQĐ ngày 21.1.1989.
Nguồn edu.go.vn
Đôi Nét Về Lịch Sử, Văn Hóa Vịnh Cam Ranh Trong Tiến Trình Phát Triển Của Dân Tộc
Cảng Cam Ranh.
Vịnh Cam Ranh nằm cách TP. Nha Trang khoảng 60km về phía Nam và được đánh giá là 1 trong 3 cảng biển tự nhiên tốt vào bậc nhất thế giới do có đủ 3 yếu tố cơ bản: chiều rộng, độ sâu và được che chắn tốt, lại nằm trong vùng ít bão.
Vịnh được tạo nên do một nhánh của dãy núi Hoàng Ngưu (còn gọi là Đồng Bò, cao hơn 927m) chạy từ mũi Cù Hin theo hướng Bắc – Nam vào đến mũi Điện dài trên 30km, nhấp nhô đồi núi cát trắng với những điểm cao: Cù Hin, núi Ké, núi Phụng Hoàng, tạo thành một bán đảo (thường gọi là bán đảo Cam Ranh). Một nhánh của dãy núi Chúa (1.040m) từ phía Nam chạy theo hướng Nam – Bắc tới mũi Chà Đà thành một bán đảo (thường gọi là bán đảo Mũi Hời), tạo thành cửa trong của vịnh, rộng khoảng 1km. Đảo Bình Ba, gồm hai ngọn núi nối liền nhau: Hòn Gò và Hòn Dự (cao từ 100 – 200m) nằm án ngữ giữa biển, phía Nam bán đảo Cam Ranh, tạo thành cửa ngoài của vịnh gồm hai cửa: cửa Lớn ở phía Nam rộng khoảng 3,5km và cửa Nhỏ ở phía Bắc rộng khoảng 250m. Vịnh có chiều ngang khoảng 60km, chiều dài khoảng 20km; lòng vịnh sâu từ 12 – 25m; diện tích mặt nước cho tàu đậu khoảng 100km2, có sức chứa hàng trăm tàu cùng một lúc và tàu có trọng tải 100.000 tấn có thể ra vào vịnh dễ dàng.
Năm 1979, trong khu vực vịnh Cam Ranh, địa điểm khảo cổ học Xóm Cồn thuộc phường Cam Linh, thị xã Cam Ranh được phát hiện và đã được khai quật 2 lần vào các năm 1980 và 1992. Năm 1990, trên đảo Bình Ba và đảo Bình Hưng trong vịnh Cam Ranh, các nhà khoa học đã tiến hành khai quật với quy mô lớn. Kết quả đã thu được rất nhiều di vật của cư dân cổ gồm các loại rìu đá, đồ gốm, đồ trang sức bằng lõi ốc… Trên cơ sở đó, các nhà khoa học đã xác lập được một văn hóa khảo cổ có tên gọi: Văn hóa Xóm Cồn, niên đại 4.140 ± 80 năm cách ngày nay.
Tháng 8-2002, di chỉ khảo cổ học Hòa Diêm (thuộc xã Cam Thịnh Đông) cách di chỉ Xóm Cồn khoảng 5km về phía Nam cũng được khai quật. Hàng chục mộ chum, hàng vạn tiêu bản gốm cùng nhiều di vật bằng đá, đồng, sắt, thủy tinh, mã não… đã được tìm thấy. Như vậy, Hòa Diêm là một di chỉ cư trú và mộ táng của những cư dân cổ, là một gạch gối đáng tin cậy về khoa học của tiến trình phát triển kế tiếp từ giai đoạn văn hóa Xóm Cồn lên văn hóa Sa Huỳnh sau này ở Khánh Hòa cách đây khoảng 2.000 năm. Có thể thấy, những phát hiện về khảo cổ học nói trên không chỉ khẳng định vùng đất này từ rất sớm đã có con người sinh sống mà còn có ý nghĩa lớn về khoa học trong việc nghiên cứu các giai đoạn phát triển thời kỳ tiền sử và sơ sử ở Khánh Hòa cùng các mối quan hệ, giao lưu kinh tế – văn hóa của các nhóm cư dân cổ nơi đây với các nền văn hóa cổ ở khu vực Nam Trung bộ và Nam bộ nước ta từ hàng ngàn năm trước.
Trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật năm 1905, hạm đội Nga Sa Hoàng gồm 52 tàu các loại do Đô đốc Rôjetvenski chỉ huy xuất phát từ cảng Libô vượt qua 3 đại dương, dài trên 16.628 hải lý đến Vơladivốtstốc để giải tỏa cảng Lữ Thuận đang bị hạm đội Nhật bao vây đã ghé vào vịnh Cam Ranh tránh bão và để được tiếp nhiên liệu, lương thực, nước ngọt suốt 1 tháng (từ 12-4-1905 đến 12-5-1905). Nhân sự kiện này, các chí sĩ yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp trên đường vào các tỉnh phía Nam truyền bá phong trào Duy Tân đã ghé vịnh Cam Ranh xem hạm đội Nga và cụ Huỳnh đã để lại một bài thơ đến nay vẫn còn lưu truyền ở Khánh Hòa.
Sau chiến tranh Nga – Nhật, lo sợ trước thế lực và âm mưu tranh giành thuộc địa của Nhật ở Viễn Đông và Thái Bình Dương, năm 1911, Chính phủ Pháp đã cử Đại úy hải quân Fillommeus chỉ huy xây dựng 1 quân cảng ở Cam Ranh. Trong chiến tranh thế giới lần II, giữa năm 1939, thực dân Pháp chủ trương xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ hải quân lớn trong kế hoạch “phòng thủ chung” ở Đông Dương và nhiều công trình quân sự được xây dựng trên bán đảo Cam Ranh và đảo Bình Ba. Nhưng từ tháng 7-1940, Nhật đã ép Pháp để Nhật cùng “phòng thủ Đông Dương” và ngày 15-9-1940, Nhật gửi tối hậu thư đòi kiểm soát các căn cứ hải quân, trong đó có cảng và vịnh Cam Ranh. Trên thực tế, đến năm 1942, quân Nhật đã độc chiếm cảng và vùng vịnh đồng thời xây dựng thêm sân bay làm bàn đạp để tiến đánh các thuộc địa của Anh, Mỹ ở Thái Bình Dương cho đến năm 1945.
Ngày 18-10-1946, một sự kiện có ý nghĩa lịch sử đã diễn ra tại vịnh Cam Ranh. Trên chiếc thông báo hạm Duymont d’Urville của hải quân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi đi thăm nước Pháp trở về đã có cuộc hội đàm với Đô đốc Đácgiăngliơ nhằm ngăn chặn cuộc chiến tranh Pháp – Việt có thể nổ ra, đáng tiếc là đã không thu được kết quả do sự hiếu chiến của giới quân sự và chính trị Pháp.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Cam Ranh là một trong những vị trí bị quân đội Hoa Kỳ xâm chiếm đầu tiên. Ngày 10-6-1965, Lữ đoàn 106 gồm 4.000 công binh Mỹ đến Cam Ranh xây dựng căn cứ quân sự; tháng 8-1965, 4.000 tên thuộc Lữ đoàn 1 Sư đoàn dù 101 đến Cam Ranh; tháng 10-1965, Trung đoàn 30 Sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên đến Cam Ranh. Từ đó, quân Mỹ và chư hầu liên tiếp đổ quân vào Cam Ranh, năm cao nhất (1968) có tới 2 vạn quân Mỹ và 1 vạn quân của các nước chư hầu. Cam Ranh thật sự trở thành một căn cứ quân sự liên hợp hải, lục, không quân và khu hậu cần lớn cho cả chiến trường Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Tại đây chúng đã xây dựng sân bay cấp 1 có thể sử dụng cho các loại máy bay hiện đại và hệ thống đường sá với tổng chiều dài 260km. Tháng 3-1967, chính quyền tay sai Thiệu – Kỳ đã ký hiệp định bán đứng vùng bán đảo và vịnh Cam Ranh cho Mỹ trong 99 năm, bao gồm một vùng rộng lớn với diện tích 260km2 và Mỹ đã biến Cam Ranh thành căn cứ hải quân lớn nhất Đông Nam Á.
Tháng 12-1968, Tiểu đoàn Đặc công 407 của Liên khu V đã được điều động về Cam Ranh, chuyên trách đánh căn cứ này. Mở đầu là trận đánh đêm ngày 6 rạng ngày 7-8-1969 tại Lỗ Đất, ta đã tiêu diệt 550 tên, hầu hết là sĩ quan và giặc lái Mỹ, phá hủy 9 kho chứa 350 tấn hàng quân sự, 2 kho xăng 1 triệu lít, 5 xe quân sự và 25 căn trại. Ngày 18-7-1971, ta tấn công kho xăng Quảng Cơ, đốt cháy 45 triệu lít xăng, diệt 30 tên Mỹ. Ngày 21-9-1971, tấn công kho bom Núi Ké, diệt 55 tên Mỹ, phá hủy 32 kho đạn gồm 55 vạn tấn, trong đó có 1 kho bom loại 7 tấn, 1 hầm tên lửa, 12 xe quân sự, 55 dàn tên lửa bảo vệ căn cứ. Đêm 8-4-1972, tập kích kho Suối Mốc, phá hủy hơn 35.000 tấn bom đạn, diệt 300 quân Mỹ. Đêm 11-6-1972, đánh kho xăng Ô Vũ, thiêu hủy 20 triệu lít xăng. Đêm 5-8-1972, diệt 200 quân ngụy, phá hủy 14 căn trại lính… Trong chiến dịch mùa xuân 1975, ngày 3-4-1975, Sư đoàn 10 tiến vào giải phóng Cam Ranh và tổ chức tiếp quản toàn bộ khu vực Cảng. Cam Ranh trở thành một bàn đạp chiến lược, căn cứ hậu cần của ta phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Từ năm 1979, theo hiệp định được ký kết giữa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Xô, Cảng Cam Ranh được dùng làm căn cứ hậu cần của hạm đội Thái Bình Dương. Ngày 2-5-2002, theo thỏa thuận giữa Việt Nam và Liên bang Nga, Cảng Cam Ranh đã được bàn giao lại cho ta. Quan điểm của Việt Nam về việc sử dụng Cảng Cam Ranh trong tương lai là sẽ không hợp tác với bất cứ nước nào để sử dụng Cam Ranh vào mục đích quân sự. Việt Nam sẽ khai thác có hiệu quả nhất những tiềm năng và lợi thế của Cam Ranh phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiến sĩ NGUYỄN CÔNG BẰNG
Bạn đang xem bài viết Người Con Ưu Tú Của Dân Tộc Việt trên website Uplusgold.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!