Top 9 # Ý Nghĩa Tên Hồng Nguyên Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Uplusgold.com

Bài Thơ: Nhớ (Hồng Nguyên

Xuất hiện vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gần như cùng lúc với Đèo cả của Hữu Loan, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhớ của Hồng Nguyên đã làm nên bộ “ngũ tư bất tử” của thơ chống Pháp nói riêng và trong lịch sử thi đàn Việt Nam nói chung.

Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.

Vì sao bài thơ lại có sức ám ảnh và vang động như vậy trong lòng người đọc? Lý giải điều đó tưởng không dễ dàng, song không phải là không làm được, nhất là sau hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày bài thơ ra đời. (1948?)

Bài thơ có tất cả 62 dòng thơ, dòng dài nhất có 10 chữ (Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa), dòng ít nhất có hai chữ (- Đằng nớ?) và được chia làm ba khổ thơ mạch lạc, khúc triết, có mở có khép và có phát triển ở khoảng giữa thân bài. Cả bài thơ giống như “kịch bản phân cảnh” của một bộ phim tài liệu, nói về một cuộc hành quân chiến đấu của những người lính Vệ quốc đoàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Vậy trong đoàn quân ấy có bao nhiêu người, họ là những ai? Vào đầu bài thơ, nhà thơ không ngần ngại, giới thiệu luôn:

Lũ chúng tôiBọn người tứ xứGặp nhau hồi chưa biết chữQuen nhau từ buổi “một, hai”Súng bắn chưa quenQuân sư mươi bài

Rồi nhà thơ hồn nhiên hạ ngay một lời bình về tinh thần đoàn quân ấy:

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Thế đấy, chúng tôi tự giới thiệu về chúng tôi như thế đấy! Số lượng của chúng tôi không được công bố cụ thể (có lẽ vì bí mật quân sự), nhưng chúng tôi khá đông đảo (lũ, bọn) và trình độ văn hoá còn thấp (chưa biết chữ), trình độ quân sự cũng chưa cao (súng bắn chưa quen), song chúng tôi có nhiệt tình cách mạng, có ý chí chiến đấu và rất lạc quan (lòng vẫn cười vui kháng chiến).

Bằng giọng tự trào đầy hóm hỉnh, nhà thơ đã tự giới thiệu về đồng đội của mình vừa chuẩn xác, vừa chân thành và đáng yêu biết bao. Những con người ấy vừa từ luống cày bước ra, từ sau luỹ tre làng bước tới cũng hệt như những người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu, từ nước mặn đồng chua, từ đất đồi cày lên sỏi đá, tụ tập về đây theo một tiếng gọi thiêng liêng và trở thành đồng đội. Ngoài tinh thần lạc quan và ý chí chiến đấu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, họ hầu như chả có trang bị, vũ khí gì đáng kể:

Lột sắt đường tàuRèn thêm dao kiếmÁo vải chân khôngĐi lùng giặc đánh…

Tôi không có cứ liệu trong tay để chứng minh bài thơ được viết vào năm 1948, nhưng tôi có câu thơ của Hồng Nguyên nói rõ điều đó:

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Nếu tính từ mùa Thu Tháng Tám 1945, ba năm rồi gửi lại quê hương, ắt phải là năm 1948, mà cũng mùa thu nữa kia. Sao vậy? Bởi vì đến những ngày kỷ niệm cách mạng, các nhà thơ mới hay làm thơ! Thơ để in báo, thơ để tuyên truyền, cần phải trúng dịp, chứ sao!

Trong cuộc hành quân liên miên của đoàn quân ấy, thỉnh thoảng trong tâm trí mỗi người, hình ảnh quê là cũng hiện lên trong nỗi nhớ:

Mái lều gianhTiếng mõ đêm trườngLuống cày đất đỏÍt nhiều người vợ trẻMòn chân bên cối gạo canh khuya

Nói theo ngôn ngữ điện ảnh, đây là một cảnh phim “phục hiện” có sức khái quát và ám ảnh rất cao. Cú máy đặc tả gót chân người vợ trẻ:

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Cái tình thương nhớ thiết tha đau đáu chỉ diễn tả bằng hình, một khuôn hình đặc tả, tài vậy thay! Và đây là phim câm, phim không lời!

Cuộc hành quân vẫn tiếp tục, với những gian khổ, nhọc nhằn, nhưng cũng đầy lạc quan phấn khởi, có khi còn thơ mộng nữa, nếu như được nhìn thấy “mấy o thôn nữ cuối nương dâu”, nếu như, vào lúc nghỉ ở lưng đèo, những người lính trẻ nói chuyện bù khú về vợ con và cười sảng khoái, cười đến vang ruộng bắp:

Chúng tôi điNắng mưa sờn mép ba lôTháng năm bạn cùng thôn xómNghỉ lại lưng đèoNằm trên dốc nắngKỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắngQuờ chán tìm hơi ấm đêm mưa– Đằng nớ vợ chưa?– Đằng nớ?– Tớ còn chờ độc lậpCả lũ cười vang bên ruộng bắpNhìn o thôn nữ cuối nương dâu…

Sang đoạn thơ thứ hai, bài thơ mở ra với những câu thơ dài rộng, thể hiện sự tiếp xúc và lớn vượt của đoàn quân với nhân dân và đất nước. Tầm mắt mở rộng hơn, tâm hồn mở rộng hơn và nhờ thế lòng lạc quan, yêu đời cũng càng thêm phơi phới. Bao nhiêu gặp gỡ, tiếp xúc, bao nhiêu cảnh sắc, nếp sinh hoạt ở từng miền quê lũ lượt ùa vào thơ như những cánh phim toàn rộng. Lời thơ thanh thoát, thảnh thơi, hơi thở điệp trùng, cuồn cuộn:

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu độngQua nhiều nơi không nhớ hết tên làng… Tôi nhớ bờ tre gió lộngLàng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau

Tình quân dân cá nước giản dị mà vô cùng thắm thiết, gần gũi:

… Có tiếng gà gáy sớmCó “khai hội, yêu cầu, chất vấn”Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa…Trăng lên tập họp hát om nhà.

Bao nhiêu kỷ niệm về những làng quê, về những con người và những tấm lòng thơm thảo của những miền đất lạ đã in đậm trong tâm hồn người chiến sĩ. Những kỷ niệm ấy sẽ vĩnh viễn không phai mờ theo năm tháng, bởi vì nó cụ thể, nó hiển hiện trước mắt ta như sờ thấy được:

Tôi nhớGiường kê cánh cửaBếp lửa khoai vùiĐồng chí nứ vui vuiĐồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ…

Tuy nhiên, đường hành quân còn dài, sau những phút giây nghỉ ngơi, đoàn quân lại lên đường, lặng lẽ vào một đêm trăng lu, “nòng súng nghiêng nghiêng, đường mòn thấp thoáng”. Các anh ra đi vì nhiệm vụ nặng nề mà đất nước giao cho, nhưng tấm lòng còn ở lại:

Chúng tôi đi nhớ nhất câu niDân chúng cầm tay lắc lắc:“Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”

Câu thơ ấy chợt gợi nhớ đến câu thơ rất hay, rất đồng vọng của Hoàng Trung Thông:

Các anh đi đến khi nào trở lạiXóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong…(Bộ đội về làng)

Và một cộng hưởng của thơ Hữu Loan:

Một làng xa nho nhỏĐẹp như nơi hẹn hòCó đôi lòng gắn bóNhững lời chưa nói ra…(Những làng đi qua)

Cái mô típ: Những người lính hành quân – Những xóm làng đi qua – Những kỷ niêm thôn làng – Hẹn ngày trở lại, ta gặp rất nhiều trong thơ kháng chiến chống Pháp thời kỳ đầu.

Tuy nhiên, cùng mô típ ấy, ở mỗi nhà thơ thể hiện mỗi khác và có những thành công khác nhau. Với Nhớ của Hồng Nguyên, bằng việc mạnh dạn đưa ồ ạt tiếng địa phương và khẩu ngữ vào thơ, bằng việc chuyển hẳn thơ từ giọng ngâm sang giọng nói, ông đã góp phần làm cho thơ Việt chuyển hẳn sang một nội hàm và thi pháp mới.

Chính vì vậy, bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên mãi mãi là viên ngọc sáng trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Điều thú vị nhất là, chỉ cần đem phân cảnh rồi quay phim, chúng ta sẽ có một bộ phim tên là Nhớ. Tôi tin là rất hay!

Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh.

Bài Thơ Nhớ (Hồng Nguyên)

Nội Dung

– Đằng nớ vợ chưa? – Đằng nớ? – Tớ còn chờ độc lập Cả lũ cười vang bên ruộng bắp, Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu. Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động, Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng. Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng Tôi nhớ bờ tre gió lộng Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau. Có tiếng gà gáy xóm, Có “Khai hội, yêu cầu, chất vấn!” Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa. Trăng lên tập hợp hát om nhà.

Tôi nhớ Giường kê cánh cửa, Bếp lửa khoai vùi Đồng chí nứ vui vui, Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ, Đồng chí mô nhớ nữa, Kể chuyện Bình – Trị – Thiên, Cho bầy tôi nghe ví, Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí – Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ, Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.

(1948)

Bài thơ Nhớ gồm có 62 dòng thơ và dòng dài nhất có 10 chữ. Nó được chia làm ba khổ thơ với ba mạch cảm xúc khác nhau. Nhưng ta cũng có thể thấy được ngay từ đoạn đầu bài thơ đã lựa chọn cách thể hiện rất riêng. Đó là hình ảnh của những người lính Vệ quốc đoàn trong những năm tháng kháng chiến. Họ có bao nhiêu người và gồm những ai? Thông tin này đã được nhà thơ giới thiệu thông qua những vần thơ đầu tiên.

Họ đã tự giới thiệu thế đây, số lượng tuy không công bố cụ thể nhưng khá đông. Và trình độ văn hóa cũng rất thấp và trình độ quân sự cũng chưa cao. Tuy nhiên ở chúng tôi có điểm đặc biệt đó chính là tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và sự lạc quan vẫn vui cười khi kháng chiến.

Bằng những câu thơ hóm hỉnh nhà thơ đã tự giới thiệu về những đồng đội của mình đáng yêu và chân thành biết bao. Những con người ấy đã từ luống cày mà bước ra. Hình ảnh này cũng giống với hình ảnh của những anh chiến sĩ trong thơ Chính Hữu. Họ từ nước mặn đồng chua, từ miền quê nghèo đất cày nên sỏi đá để đi theo tiếng gọi tổ quốc. Cũng chính là ý thức chiến đấu, giải phóng dân tộc sâu sắc.

Cuộc hành quân ấy vẫn gian lao và khó khăn nhưng cũng có những khi phấn khởi bởi có được những lúc mộng mơ. Đó là hình ảnh của những o thôn nữ ở cuối nương dâu. Là những câu chuyện về người vợ người con từ các chú chiến sĩ với điệu cười sảng khoái.

Tôi nhớ Giường kê cánh cửa Bếp lửa khoai vùi Đồng chí nứ vui vui Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ… .. Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni Dân chúng cầm tay lắc lắc: “Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”

Và cái tình quân dân cá nước ấy sao mà tha thiết và gần gũi tới thế. Bao nhiêu kỷ niệm của làng quê về những con người, những tấm lòng của miền đất lạ đã in dấu và trong tâm hồn của người chiến sĩ. Và những kỷ niệm ấy sẽ theo năm tháng mà không phai mờ và ta cũng sờ thấy được.

Tuy nhiên sau những giờ phút mệt nhọc ấy các anh lại lên đường với nhiệm vụ vô cùng nặng nề. Đó là nhiệm vụ mà đắt nước giao cho và cũng vô cùng khó khăn và gian khổ. Nó cũng giống như sức nặng của khẩu súng mà các anh vác trên vai. Qua đó cũng khắc họa được hình ảnh của người chiến sĩ với ý chí kiên cường và bất khuất. Đó cũng chính là giá trị của bài thơ Nhớ của nhà thơ Hồng Nguyên.

Tên Nguyễn Hồng Nguyên Ý Nghĩa Gì, Tốt Hay Xấu?

Gợi ý một số tên gần giống đẹp nhất:

Luận giải tên Nguyễn Hồng Nguyên tốt hay xấu ?

Thiên Cách là đại diện cho cha mẹ, bề trên, sự nghiệp, danh dự. Nếu không tính sự phối hợp với các cách khác thì còn ám chỉ khí chất của người đó. Ngoài ra, Thiên cách còn đại diện cho vận thời niên thiếu.

Thiên cách tên của bạn là Nguyễn có tổng số nét là 7 thuộc hành Dương Kim. Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ CÁT (Quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn): Có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành

Địa cách còn gọi là “Tiền Vận” (trước 30 tuổi) đại diện cho bề dưới, vợ con, và thuộc hạ, người nhỏ hơn mình, nền móng của người mang tên đó. Về mặt thời gian trong cuộc đời, Địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận.

Địa cách tên bạn là Hồng Nguyên có tổng số nét là 9 thuộc hành Dương Thủy. Địa cách theo tên sẽ thuộc quẻ HUNG (Quẻ Bần khổ nghịch ác): Danh lợi đều không, cô độc khốn cùng, bất lợi cho gia vận, bất lợi cho quan hệ quyến thuộc, thậm chí bệnh nạn, kiện tụng, đoản mệnh. Nếu tam tài phối hợp tốt, có thể sinh ra cao tăng, triệu phú hoặc quái kiệt.

Nhân cách: Còn gọi là “Chủ Vận” là trung tâm của họ và tên, vận mệnh của cả đời người do Nhân Cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Giống như mệnh chủ trong mệnh lý, Nhân cách còn là hạt nhân biểu thị cát hung trong tên họ. Nếu đứng đơn độc, Nhân cách còn ám chỉ tính cách của người đó. Trong Tính Danh học, Nhân cách đóng vai trò là chủ vận.

Nhân cách tên bạn là Nguyễn Hồng có số nét là 11 thuộc hành Dương Mộc. Nhân cách thuộc vào quẻ ĐẠI CÁT (Quẻ Vạn tượng canh tân): Dị quân đột khởi, âm dương điều hòa, tái hưng gia tộc, phồn vinh phú quý, tử tôn đẹp đẽ. Là điềm tốt toàn lực tiến công, phát triển thành công.

Ngoại cách chỉ thế giới bên ngoài, bạn bè, người ngoài xã hội, những người bằng vai phải lứa, quan hệ xã giao. Vì mức độ quan trọng của quan hệ giao tiếp ngoài xã hội nên Ngoại cách được coi là “Phó vận” nó có thể xem phúc đức dày hay mỏng.

Ngoại cách tên của bạn là họ Nguyên có tổng số nét hán tự là 5 thuộc hành Dương Thổ. Ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ ĐẠI CÁT (Quẻ Phúc thọ song mỹ): Điềm âm dương giao hoan, hòa hợp, hoàn bích. Có vận thế thành công vĩ đại hoặc xây thành đại nghiệp ở đất khách, tất phải rời nơi sinh mới làm giầu được, kỵ dậm chân tại chỗ.

Tổng cách (tên đầy đủ)

Tổng cách thu nạp ý nghĩa của Thiên cách, Nhân cách, Địa cách nên đại diện tổng hợp chung cả cuộc đời của người đó đồng thời qua đó cũng có thể hiểu được hậu vận tốt xấu của bạn từ trung niên trở về sau.

Mối quan hệ giữa các cách

Số lý của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Dương Mộc” Quẻ này là quẻ Người này tính tình an tịnh, giàu lý trí , ôn hậu, hoà nhã. Có tinh thần kiên cường bất khuất. Bề ngoài chậm chạp mà bên trong ẩn chứa năng lực hoạt động rất lớn.Sự thành công trong cuộc đời thuộc mô hình tiệm tiến, nhưng vững chắc, lâu bền.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim – Dương Mộc – Dương Thủy” Quẻ này là quẻ : Kim Mộc Thủy.

Đánh giá tên Nguyễn Hồng Nguyên bạn đặt

Bạn vừa xem xong kết quả đánh giá tên Nguyễn Hồng Nguyên. Từ đó bạn biết được tên này tốt hay xấu, có nên đặt hay không. Nếu tên không được đẹp, không mang lại may mắn cho con thì có thể đặt một cái tên khác. Để xem tên khác vui lòng nhập họ, tên ở phần đầu bài viết.

Tên Vũ Hồng Hồng Ý Nghĩa Gì, Tốt Hay Xấu?

Gợi ý một số tên gần giống đẹp nhất:

Luận giải tên Vũ Hồng Hồng tốt hay xấu ?

Thiên Cách là đại diện cho cha mẹ, bề trên, sự nghiệp, danh dự. Nếu không tính sự phối hợp với các cách khác thì còn ám chỉ khí chất của người đó. Ngoài ra, Thiên cách còn đại diện cho vận thời niên thiếu.

Thiên cách tên của bạn là Vũ có tổng số nét là 6 thuộc hành Âm Thổ. Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ CÁT (Quẻ Phú dụ bình an): Nhân tài đỉnh thịnh, gia vận hưng long, số này quá thịnh, thịnh quá thì sẽ suy, bề ngoài tốt đẹp, trong có ưu hoạn, cần ở yên nghĩ nguy, bình đạm hưởng thụ, vinh hoa nghĩ về lỗi lầm

Địa cách còn gọi là “Tiền Vận” (trước 30 tuổi) đại diện cho bề dưới, vợ con, và thuộc hạ, người nhỏ hơn mình, nền móng của người mang tên đó. Về mặt thời gian trong cuộc đời, Địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận.

Địa cách tên bạn là Hồng Hồng có tổng số nét là 10 thuộc hành Âm Thủy. Địa cách theo tên sẽ thuộc quẻ ĐẠI HUNG (Quẻ Tử diệt hung ác): Là quẻ hung nhất, đại diện cho linh giới (địa ngục). Nhà tan cửa nát, quý khóc thần gào. Số đoản mệnh, bệnh tật, mất máu, tuyệt đối không được dùng.

Nhân cách: Còn gọi là “Chủ Vận” là trung tâm của họ và tên, vận mệnh của cả đời người do Nhân Cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Giống như mệnh chủ trong mệnh lý, Nhân cách còn là hạt nhân biểu thị cát hung trong tên họ. Nếu đứng đơn độc, Nhân cách còn ám chỉ tính cách của người đó. Trong Tính Danh học, Nhân cách đóng vai trò là chủ vận.

Nhân cách tên bạn là Vũ Hồng có số nét là 10 thuộc hành Âm Thủy. Nhân cách thuộc vào quẻ ĐẠI HUNG (Quẻ Tử diệt hung ác): Là quẻ hung nhất, đại diện cho linh giới (địa ngục). Nhà tan cửa nát, quý khóc thần gào. Số đoản mệnh, bệnh tật, mất máu, tuyệt đối không được dùng.

Ngoại cách chỉ thế giới bên ngoài, bạn bè, người ngoài xã hội, những người bằng vai phải lứa, quan hệ xã giao. Vì mức độ quan trọng của quan hệ giao tiếp ngoài xã hội nên Ngoại cách được coi là “Phó vận” nó có thể xem phúc đức dày hay mỏng.

Ngoại cách tên của bạn là họ Hồng có tổng số nét hán tự là 6 thuộc hành Âm Thổ. Ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ CÁT (Quẻ Phú dụ bình an): Nhân tài đỉnh thịnh, gia vận hưng long, số này quá thịnh, thịnh quá thì sẽ suy, bề ngoài tốt đẹp, trong có ưu hoạn, cần ở yên nghĩ nguy, bình đạm hưởng thụ, vinh hoa nghĩ về lỗi lầm.

Tổng cách (tên đầy đủ)

Tổng cách thu nạp ý nghĩa của Thiên cách, Nhân cách, Địa cách nên đại diện tổng hợp chung cả cuộc đời của người đó đồng thời qua đó cũng có thể hiểu được hậu vận tốt xấu của bạn từ trung niên trở về sau.

Mối quan hệ giữa các cách

Số lý của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Âm Thủy” Quẻ này là quẻ Tính thụ động, ưa tĩnh lặng, đơn độc, nhạy cảm, dễ bị kích động. Người sống thiên về cảm tính, có tham vọng lớn về tiền bạc, công danh.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Âm Thổ – Âm Thủy – Âm Thủy” Quẻ này là quẻ : Thổ Thủy Thủy.

Đánh giá tên Vũ Hồng Hồng bạn đặt

Bạn vừa xem xong kết quả đánh giá tên Vũ Hồng Hồng. Từ đó bạn biết được tên này tốt hay xấu, có nên đặt hay không. Nếu tên không được đẹp, không mang lại may mắn cho con thì có thể đặt một cái tên khác. Để xem tên khác vui lòng nhập họ, tên ở phần đầu bài viết.