Top 9 # Ý Nghĩa Tên Nước Việt Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Uplusgold.com

Lịch Sử Tên Nước Việt Nam

Vùng cao miền bắc đất Việt

Quan niệm phổ biến từ trước và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi vì chính sử của cả nước ta và Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái hai đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư Bộ Hộ là Trịnh Hoài Đức làm Chánh sứ, đem trao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Đoàn kia do Thượng thư Bộ Binh là Lê Quang Định làm Chánh sứ, xin phong vương cho Nguyễn Ánh và xin đặt quốc hiệu là Nam Việt. Lời quốc thư của Nguyễn Ánh có đoạn:

“… Mấy đời trước mở đất viên giao càng ngày càng rộng, gồm cả nước Việt Thường và nước Chân Lạp, đặt quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn hai trăm năm. Nay tôi lấy hết cõi Nam, có toàn miền đất Việt, nên theo hiệu cũ để chính quốc danh…”.

Cũng năm 1802, nhà Thanh chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (năm 1804), sứ giả nhà Thanh là Tề Bố Sâm mới mang cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long để làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh.

Những mảnh đất chứa đầy dấu vết lịch sử

Như vậy, quốc hiệu Việt Nam được công nhận từ năm 1802, nhưng phải đến năm 1804 nó mới được chính thức thừa nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Giữa hai mốc thời gian này, có nhiều cuộc đi lại, tranh luận, hội đàm khá phức tạp giữa hai triều đình Nguyễn – Thanh, bởi vì nhà Nguyễn muốn lấy quốc hiệu nước ta là Nam Việt như hồi các chúa Nguyễn khởi nghiệp, nên không bằng lòng ngay với sự đổi thành Việt Nam của nhà Thanh.

Trong cuốn Nước Đại Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, tác giả người Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi căn cứ vào kết quả nghiên cứu của nhà Đông phương học Chusei Suzuki, cũng khẳng định điều đó: “Năm 1803, có những cuộc thương thảo rất quan trọng về quốc hiệu dưới triều Nguyễn: Nam Việt hay Việt Nam”.

Sở dĩ nhà Thanh muốn sửa Nam Việt thành Việt Nam là vì hai lý do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc từng có Triệu Đà nổi dậy cát cứ, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Hoàng đế; các triều đại trung ương ở Trung Quốc đều không thừa nhận nước Nam Việt, nhà Thanh cũng vậy và không muốn bị gợi lại quá khứ kém hùng mạnh ấy.

Thăng Long – Hà Nội trái tim cả nước

Thứ hai (lý do này mới quan trọng!), Nam Việt – theo cách hiểu truyền thống – có thể gồm cả miền đất nước ta và các xứ Việt Đông, Việt Tây (tức Quảng Đông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt làm quốc hiệu nước ta, sau này sẽ gây rắc rối về mặt lãnh thổ. Quốc thư phúc đáp của vua Thanh gửi vua Nguyễn đã tế nhị trình bày lý do đó và khéo léo chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam:

“… Lúc trước có đất Việt Thường đã xưng là nước Nam Việt, nay có cả đất An Nam, xét ra cho kỹ, thì nên gộp cả đất đai trước sau mà đặt danh hiệu tốt. Vậy, định lấy chữ Việt để trên, tỏ việc giữ đất cũ mà nối nghiệp trước; lấy chữ Nam đặt dưới, tỏ việc mở cõi Nam giao mà chịu quyền mệnh mới. Như thế thì danh xưng chính đại, nghĩa chữ tốt lành, so với hai đất Việt nước Tàu khác nhau xa lắm…”.

Di tích cố đô Huế

Thực ra, không phải đến tận đầu thời Nguyễn, cái tên Việt Nam mới xuất hiện và có xuất xứ như vậy. Tên gọi Việt Nam được biết đến ít nhất từ thế kỷ 14, thường thấy trong nhiều thư tịch đương thời: Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc, Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Trình tiên sinh quốc ngữ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,…

Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cũng sưu tầm được các văn bia (với niên đại đều trước thế kỷ 18) có khắc tên gọi Việt Nam, tại những địa điểm khác nhau ở miền Bắc: bia chùa Bảo Lâm (có từ năm 1558, tại Chí Linh – Hải Dương), bia chùa Cam Lộ (1590, Phú Xuyên – Hà Nội), bia chùa Phúc Thánh (1664, Quế Võ – Bắc Ninh), bia Thủy Môn Đình (1670, Đồng Đăng – Cao Lộc – Lạng Sơn); trong đó bia chùa Bảo Lâm và Thủy Môn Đình đã bị thất lạc, hiện chỉ còn bản dập tại Viện Nghiên cứu Hán – Nôm.

Tên gọi Việt Nam có lẽ mang ý nghĩa kết hợp nòi giống và vị trí cư trú địa lý của dân tộc ta (Việt Nam – nước của người Việt ở phía Nam), thể hiện niềm tự tôn, tinh thần độc lập và phủ nhận sự áp đặt, miệt thị của người Trung Quốc. Tuy nhiên, nó chưa thể trở thành quốc hiệu vì chưa được các triều đại phong kiến nước ta tuyên bố hoặc ghi nhận bằng pháp luật.

Tên gọi Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta vào năm 1792 (chứ không phải vào đầu thời Nguyễn!). Nó được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng (chiếu) của Nhà nước Tây Sơn, niên hiệu Quang Trung thứ 5 và đã được thông báo cho nhà Thanh (Trung Quốc). Trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) vào mùa Xuân năm Nhâm Tý 1792, nội dung như sau:

“Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết:

Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Nước ta: sao chùa Dực, Chẩn, cõi Việt hùng cường. Từ lâu đã có tên Văn Lang, Vạn Xuân còn thô kệch. Đến thời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài… Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ.

Từ nay trở đi, cõi Viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền, ở trong bờ cõi đều hưởng phúc thanh ninh.

Vui thay, cõi Xuân Thu nhất thống đã truyền khắp bốn phương, gồm ân huệ lâu dài đều hưởng, còn nhiều muôn phúc.

Vậy, nay bá cáo rộng khắp để mọi người đều biết.

Nay chiếu.”.

Tuy nhiên, vương triều Tây Sơn tồn tại khá ngắn ngủi, lại gặp nhiều phức tạp nội bộ, nên quốc hiệu mới Việt Nam chưa được dùng phổ biến. Tính đến nay, chúng ta cũng chưa tìm thấy sử liệu đáng kể nào nói về phản ứng của các nước ngoài (nhất là nhà Thanh – Trung Quốc) với việc đổi quốc hiệu này.

Trong lịch sử nước ta, có một hiện tượng rất thú vị là quốc hiệu và tên gọi đất nước (quốc danh) thường không thống nhất. Chẳng hạn, năm 1054, nhà Lý đổi quốc hiệu là Đại Việt, quốc hiệu đó liên tục tồn tại đến hết đời Trần (1400), thế nhưng chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh ngày 10/1/1226 lại mở đầu bằng câu: “Nước Nam Việt ta từ lâu đã có các đế vương trị vì”.

Nhà Hồ (1400-1407) đổi quốc hiệu là Đại Ngu (sự yên vui lớn), nhưng đa số dân chúng vẫn gọi Đại Việt, còn người Trung Quốc gọi Giao Chỉ. Thế kỷ thứ 15, trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi có viết: “Vua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam làm tổ Bách Việt”, nhưng trong Bình Ngô đại cáo, ông lại viết: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đời Gia Long (trị vì năm 1802-1820), quốc hiệu là Việt Nam, nhưng một bộ phận dân chúng vẫn quen gọi Đại Việt, còn người Trung Quốc và phương Tây thường gọi An Nam…

Miền đất phương Nam

Sau khi lên nối ngôi vua Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Đại Nam (cuối năm 1838), cái tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (năm 1905) rồi cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam Quang phục hội (1912); Phan Châu Trinh viết Pháp – Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam (1914), Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược (1919); Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội (1925) và Việt Nam Độc lập Đồng minh hội (1941)…

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Đại. Bảo Đại đổi lại quốc hiệu từ Đại Nam thành Việt Nam. Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó./.

Tên Nước Việt Nam, Một Hành Trình Lịch Sử

Gần đây việc thay đổi quốc hiệu Việt Nam đã trở thành một đề tài chính trị sôi nổi đối với những người quan tâm đến tên gọi của đất nước. Trở lại với quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay vẫn giữ nguyên Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam? Ý kiến thì rất nhiều, nhưng xem ra các đại biểu Quốc hội có khuynh hướng giữ nguyên tên gọi còn trong dân chúng lại có luồng ý kiến nên trở về với tên gọi ngày xưa.

Lý lẽ của cả hai phía rất đa dạng, lợi hay hại cũng được nêu lên để biện minh cho lý do của mỗi bên. Xem ra, việc chọn lựa quốc hiệu cho cả nước là một vấn đề có tầm quan trọng không nhỏ đến tương lai của đất nước trong thế giới ngày nay.

Bài viết này điểm lại một số tên gọi trước đây của nước Việt Nam. Điều mà ít người để ý là Việt Nam đã có tới gần 20 quốc hiệu, chính thức cũng như bán chính thức, trong suốt quá trình lập quốc cho đến ngày nay. Các tên gọi này đều được ghi chép trong sử sách hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.

được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam để chỉ một quốc gia có kinh đô đặt tại Phong Châu, nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ Văn Lang gồm khu vực đồng bằng miền Bắc và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia Văn Lang tồn tại cho đến năm 258 Trước công nguyên (TCN).

Đó là thời kỳ của các vua Hùng, giống như những tộc trưởng người Mường mà sau này các quan lang ở Hòa Bình, hay ở Thanh Hóa, chính là những người kế tục. “Văn” là tri thức, hiểu đơn giản liệu đó có phải là những người xăm mình theo tập tục cổ xưa?

Năm 257 TCN, nước

Âu Lạc (甌雒, 甌駱, 甌貉)

được hình thành từ việc liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán – An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam Quảng Tây (Trung Quốc).

Khoảng cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đầu thế kỷ thứ 2 TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN), Triệu Đà (quận úy Nam Hải nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.

Sau Âu Lạc là

, với hàm ý đất nước của “mười ngàn mùa xuân”, một cái tên thật đẹp dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế nhưng tiếc thay lại có thời kỳ độc lập ngắn ngủi, thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.

Đại Cồ Việt (大瞿越)

là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng đặt tên năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu Đại Việt.

là quốc hiệu từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (bị gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh). Đại Việt kéo dài từ năm 1054 đến 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, nhưng thời gian thực quyền chỉ được 743 năm.

là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ.

Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu (虞) ở đây có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình”, chứ không có nghĩa là “ngu si” (愚癡) như nhiều người lầm tưởng.

Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt. Người ta nhận thấy những tên gọi như Đại Ngu và Đại Việtthường được hiểu với ý nghĩa “vĩ đại”. Trong thực tế, lịch sử thế giới cho thấy nghĩa của chữ “vĩ đại” thường dùng chỉ một số quốc gia nổi tiếng trong việc đi xâm chiếm hoặc làm khuynh đảo thế giới trong một thời kỳ dài.

Quốc hiệu

chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Ban đầu vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng “Nam” có ý nghĩa “An Nam” còn “Việt” có ý nghĩa “Việt Thường”. Tuy nhiên, tên Nam Việt lại trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việtthời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa. Nhà Thanh đề nghị nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn. Quốc hiệu Việt Nam được chính thức tuyên phong từ năm 1804.

Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam đã xuất hiện sớm hơn, nghĩa là trước 1804. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) cũng đã nhiều lần nhắc đến hai chữ Việt Nam.

Điều này còn được đề cập rő trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Người ta cũng tìm thấy hai chữ Việt Nam trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh…

Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng hai chữ Việt Nam được cấu thành bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).

Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi, xin phép nhà Thanh cho đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam(大南), ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên nhà Thanh đã không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng đã đơn phương công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15/2/1839. Quốc hiệu này tồn tại cho đến năm 1945.

Cờ Việt Nam trong giai đoạn từ 1802 đến 1945

Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập chính phủ độc lập trên danh nghĩa vào ngày 17/4/1945, đứng đầu là học giả Trần Trọng Kim (tác giả cuốn Việt Nam Sử Lược), với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Trên thực tế, khi đó Nhật Bản vẫn cai trị Nam Kỳ.

Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả cho Việt Nam ngày 14/8/1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Trên danh nghĩa, đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, danh xưng Đế quốc Việt Nam được chính thức dùng làm quốc hiệu và đất Nam Kỳ được thống nhất về mặt địa lý vào đất nước Việt Nam.

Cờ Việt Nam trong giai đoạn từ 1945 đến 1948

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2/9/1945 (ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra năm 1949. Trong thời kỳ 1954-1975, chính thể này còn phải đối đầu với Việt Nam Cộng hòađược thành lập tại miền Nam Việt Nam.

Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Quốc gia Việt Nam là danh xưng của toàn bộ vùng lãnh thổ Việt Nam, được ra đời chính thức từ Hiệp ước Elysée ký ngày 8/3/1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại. Về danh nghĩa, chính quyền thuộc khối Liên hiệp Pháp, độc lập, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955).

Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính xác hơn, đó là Đệ nhất Cộng hòa để phân biệt với giai đoạn chính trị tiếp theo được gọi là Đệ nhị Cộng hòa sau khi Tổng thống Diệm bị lật đổ.

Như vậy, Việt Nam Cộng hòa là tên gọi quốc gia được thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế tục Quốc gia Việt Nam (1949-1955). Trong cuộc trưng cầu dân ý tại miền Nam Việt Nam năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền này, gồm Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa, tồn tại độc lập và đối kháng khốc liệt với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại miền Bắc trong 20 năm. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào ngày 30/4/1975.

Quốc kỳ Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là tên gọi mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đượcViệt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn. Tổ chức này được đặt ra tại miền Nam Việt Nam với việc thành lập một chính phủ mới để chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Danh xưng tồn tại trong 7 năm (1969-1976), sau đó, chính quyền lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã giải tán để hợp nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành một quốc gia Việt Nam thống nhất.

Cờ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam

Ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết định đổi tên nước thànhCộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.

Quốc kỳ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Ngoài ra còn một số danh xưng gây nhiều tranh cãi như quốc hiệu Xích Quỷ (赤鬼), còn gọi là Thích Quỷ, một cái tên chẳng đẹp đẽ gì vì nó hàm ý… những con quỷ đỏ.

Theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim, Xích Qủy có nguồn gốc từ thủy tổ của người Việt là Kinh Dương Vương. Sách chép:

“Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ “.

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp biển Nam Hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.

Vấn nạn thứ hai: Nam Việt (南越) là quốc hiệu thời nhà Triệu (207 TCN-111 TCN). Nói chính xác thì đối tượng tranh cãi không phải là bản thân tên gọi Nam Việt, mà vấn đề là quốc hiệu này có đại diện cho nước Việt Nam hay không. Thời phong kiến xem Nam Việt chính là quốc hiệu của tộc người Việt, nhưng quan điểm chính thống ngày nay cho rằng quốc gia Nam Việt khi đó là của người Trung Hoa.

Không coi Nam Việt là của Việt Nam vì lý do Triệu Đà là người Hán, quê huyện Chân Định, nhân lúc nhà Tần suy loạn đã nổi lên lập ra nhà Triệu, lấy quốc hiệu là Nam Việt. Các ý kiến ngược lại, cho rằng quốc hiệu này là của người Việt, có các nhận định của các học giả như Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên.

Lê Văn Hưu viết: “Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ (như Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “lão phu”, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được”.

Ngô Sĩ Liên nói: “Truyện Trung Dung có câu: “Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu”. Vũ Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: “Biết khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua”. Vua chính hợp câu ấy”.

Hoặc vua Quang Trung sau khi đánh bại đội quân nhà Thanh năm 1789 đã có ý định đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây với lý do đây là đất cũ của Nam Việt thời Triệu Đà.

Vấn nạn thứ ba: An Nam (安南) là danh xưng của người nước ngoài chỉ lãnh thổ Việt Nam trong một số thời kỳ. Nguồn gốc danh xưng này từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường ở Trung Quốc đã đặt tên cho khu vực lãnh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay làAn Nam đô hộ phủ (673-757 và 768-866).

Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của Trung Quốc, danh hiệu An Nam quốc vương (kể từ năm 1164). Từ đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là gì. Cách gọi này đã ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945.

Thời kỳ thuộc Pháp, Annam (gọi theo tiếng Pháp) là tên gọi chỉ vùng lãnh thổ Trung Kỳ do nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Tuy vậy, người Pháp vẫn dùng danh xưng Annam để chỉ người Việt nói chung ở cả 3 vùng Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine).

Quốc kỳ An Nam (1920-1945)

Học giả Nguyễn Văn Vĩnh có một bài viết nhan đề An Nam, Đại Nam hay Việt Nam? (Annam, Đại Nam ou Việt Nam?) đăng trên báo L’Annam Nouveau, số 142, ngày 2/6/1932. Bài báo viết cách đây 71 năm nhưng đối với chúng ta ngày nay đó là một đề tài đáng để suy gẫm.

Ông viết: “Nếu đất nước Trung Hoa là vĩ đại, một nước Trung Hoa trường tồn mà không phải là một nước Trung Hoa đã bị Âu hóa, thì nước ta có thể tự hào là đất nước duy nhất không có tên trên bản đồ thế giới. Nước An Nam, một bộ lạc nhỏ nhưng đã tự trưởng thành được nhờ có đất đai màu mỡ, khí hậu tuy không phải là dễ chịu thì cũng là thuận lợi cho một cuộc sống khá dễ dàng đối với những nhóm cư dân đã quen với môi trường ở đây…”

Bài viết của Nguyễn Văn Vĩnhtrên báo L’Annam Nouveau, số 142, ngày 2/6/1932

Theo Nguyễn Văn Vĩnh, cái tên An Nam là gia tài để lại từ người Trung Quốc, nhưng không phải là một Trung Hoa của đời Nhà Thanh, hay là một Trung Quốc của Tôn Dật Tiên, hoặc một Trung Quốc của những người thương lái ở Quảng Đông, mà là một Trung Quốc trường tồn theo Khổng giáo ở phần lục địa châu Á, chẳng khác bao nhiêu so với một Roma đối với châu Âu La tinh (L’Europe latine).

Có người, vì lòng ái quốc, muốn chúng ta vứt bỏ cái tên An Nam của quá khứ nhục nhã đó đi… Ông lý luận: “Nguồn gốc của loài người, theo giả thuyết là được sinh ra từ loài vượn, điều này đâu có làm cho chúng ta phải đỏ mặt mà hổ thẹn với cái xuất xứ đó, và cũng không ai muốn phủ nhận những chứng cứ khoa học nếu điều đó được chứng minh theo cách không thể phủ nhận”.

Nhìn từ góc độ này, đâu có gì là quan trọng nếu cái tên An Nam có nghĩa là một phương Nam bị Trung Hoa cai trị. Việc này, hiểu đơn giản chỉ có nghĩa là xưa kia, chúng ta là một bộ lạc, một nhóm cư dân đã từng tồn tại rất năng động, người ta chẳng khi nào lại thấy xấu hổ vì hồi trẻ mình đã rất hiếu động.

Bản đồ sơ lược Annam (1651) do Alexandre de Rhodes phác hoạ

Nguyễn Văn Vĩnh cho rằng nếu chúng ta tự gọi mình là người An Nam sẽ không cảm thấy lố bịch như cách gọi mình là Đại Nam, vì cái tên đó nó chỉ gợi lên một cái gì không thật, mà chính chúng ta cũng cho rằng không đúng. Chúng ta mong muốn có một sự vĩ đại khác thực tế hơn.

Ông kết luận: “Chúng ta từng gọi nước Pháp là Đại Pháp, cũng như ta cũng đã từng gọi Trung Quốc là Đại Thanh. Nhưng việc tự gọi mình là Đại Nam thì giống như một người nghèo khổ, vốn vẫn đi làm thuê, bỗng dưng trở thành giầu có, rồi lấy tên mình đặt tên cho một trường học được xây dựng nên bằng tiền của người khác, và để tránh nghe nó cộc lốc, đã viết tên trên bảng hiệu là: “Trường Trần văn N…”. Vậy đó, chữ Đại Nam cũng thế, dễ làm người ngoài nghĩ về một nước nghèo mới khá lên. Trong khi chúng ta không phải như vậy, điều này trở thành mỉa mai quá!”

Chúng ta tự gọi tên mình là An Nam, người Trung Quốc gọi chúng ta là “Ố nàm”, hay “Ngan-nan”. Những người phương Tây gọi chúng ta là người “Annammites”… tất cả những cái đó đều không thể ngăn cản được việc chúng ta vẫn lớn lên, một ngày kia chúng ta sẽ lớn mạnh. Chính cái tên này, sẽ nhắc nhở mỗi chúng ta rằng: chúng ta là một nước nhỏ, và sẽ càng tuyệt vời để trở thành một nước lớn từ chỗ chúng ta là một nước nhỏ!

Bản đồ “Carte de l’Asia” do Homann Heirs vẽ năm 1744

Theo tôi, cách gọi tên nước theo thời của ông Nguyễn Văn Vĩnh là quá đơn giản vì không bị ràng buộc về thể chế chính trị như ngày nay. Ở vào thời đại của chúng ta, những từ ngữ đi kèm với quốc hiệu của một nước nói lên đường lối chính trị của nước đó. Không dễ gì thay đổi dù trong thâm tâm người dân trong nước rất muốn đổi thay.

Xét cho cùng, những từ ngữ như Dân chủ, Cộng hòa hay Xã hội Chủ nghĩa chỉ là hình thức bề ngoài, cốt lõi bên trong là giới cầm quyền nước đó có được lòng dân hay không.

Chính trị và Đạo đức là hai phạm trù tuy xa mà lại rất gần nhau, cũng vì thế Daniel O’Connell, một nhà chính trị người Anh, cho rằng “Không có điều gì đúng về mặt chính trị mà lại sai về mặt đạo đức”(Nothing is politically right which is morally wrong).

***

(Nguồn: blog Nguyen Ngoc Chinh)

Bài 17: Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

1. Nhà nước

– Nhà nước ra đời 2.9.1945 do Bác Hồ làm chủ tịch nước, tên gọi là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Là thành quả của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

2/9/1945 Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

– 1975 giải phóng thống nhất đất nước cả nước quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội.

30/4/1975 Hoàn thành giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước

– Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân.

2. Phân cấp bộ máy nhà nước(4 cấp)

Nhãn

3. Phân công bộ máy nhà nước

– Quốc hội là cơ quan bao gồm những người có tài, có đức do nhân dân lựa chọn, bầu ra, tham gia làm những việc quan trọng nhất của nhà nước:

+ Làm Hiến pháp, luật để quản lý xã hội.

+ Quyết định các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại.

+ Quyết định các nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của nhà nước về nghệ thuật và hoạt động của công dân.

– Hội đồng nhân dân là cơ quan bao gồm những người có tài, đức do nhân dân địa phương lựa chọn bầu ra, tham gia công việc nhà nước ở địa phương:

+ Ra nghị quyết về các biện pháp thi hành nghiêm chỉnh hiến pháp và pháp luật ở địa phương.

+ Ra nghị quyết về kế hoạch phát triển KT – XH, ngân sách, giáo dục, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

– Chính phủ là cơ quan chấp hành của quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Vì chính phủ do quốc hội bầu ra. Nhiệm vụ:

+ Tổ chức thi hành hiến pháp, các luật và nghị quyết quốc hội; báo cáo công tác trước quốc hội.

+ Tổ chức điều hành thống nhất trong toàn quốc việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, VH-XH,…

– Ủy ban nhân dân do HĐND cùng cấp bầu ra. Nhiệm vụ: Quản lý, điều hành những công việc nhà nước ở địa phương, các VB nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND.

– Toà án nhân dân là Cơ quan xét xử có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp và xét xử các vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

– Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp.

“Tên Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Sẽ Tạo Thế Đi Lên”

Một điểm mới rất được dư luận chú ý là đề xuất về phương án lấy lại tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như tên khai sinh nước mà Chủ tịch HCM đã nêu trong tuyên ngôn độc lập để công bố với toàn thể dân tộc và quốc tế năm 1946. Quan điểm của ông về điểm mới này?

Tôi rất đồng tình và cho rằng việc này thực sự hợp lòng dân. Tôi tán thành phương án lấy lại tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có thể nêu các lý do sau đây:

Một là, tên nước cần phản ánh đúng tình hình đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Hai là, nhân dân ta, Đảng ta luôn luôn có đầu óc thực tiễn. Chúng ta là những người chân thực, biện chứng, dám nhìn thẳng vào sự thật.

Ba là, hiện nay Đảng ta phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Việc lấy lại tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một việc làm rất thiết thực. Tên nước là Việt Nam dân chủ cộng hoà được Bác Hồ đặt ra, được quy định trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Chúng ta rất trân trọng vì nó thể hiện sự sáng suốt, thiết thực của Bác Hồ.

Bốn là, bà con người Việt Nam ở nước ngoài luôn luôn hướng vể tổ quốc, vui mừng dõi theo những thành quả mà nhân dân ta đạt được trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong nhiều năm qua, tôi đã nhiều lần được gặp gỡ, “tiếp xúc với các cử tri Việt Kiều”. Tôi hiểu được nguyện vọng của bà con. Tôi tin rằng việc đổi lại tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ được bà con hoan nghênh. Như thế, càng có lợi cho sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân tộc.

Năm là, các nước cùng thể chế chính trị như nước ta thì hầu như không nước nào đổi tên để có cụm từ xã hội chủ nghĩa như nước ta. Trung Quốc từ năm 1949 đến nay vẫn giữ nguyên gọi là nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa…

Nói như vậy có nghĩa, tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ thể hiện được đúng đặc điểm, trình độ phát triển của Việt Nam hiện nay và sẽ có tác động tích cực tới các bước phát triển của đất nước?

Lấy lại tên nước như vậy sẽ rất có lợi cho nhân dân, để người dân hiểu thực chất chế độ chính trị của mình, hiểu thực chất mức độ phát triển hiện tại của đất nước mình, để mỗi người dân không ngạo mạn, chủ quan rằng mình đang ở “mốc” xã hội chủ nghĩa.

Thực chất là mình đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ (mà thời gian của thời kỳ quá độ còn dài lắm). Nhân dân là người chủ, là nền tảng và là động lực để phát triển đất nước. Lãnh đạo định hướng đúng thì nhân dân cũng sẽ nhận thức đúng. Và như thế người dân sẽ nhận rõ trách nhiệm của mình phải làm gì để để xây dựng đất nước giàu mạnh.

Đồng thời cần nhận rõ, chúng ta chấp nhận cơ chế thị trường (bản chất là cơ chế vận động của tư bản chủ nghĩa), chúng ta hội nhập quốc tế thì phải rất tỉnh táo và sắc sảo để chủ động có những chiến lược và sách lược để áp dụng sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, minh bạch. Những người lãnh đạo cần có cái nhìn thực tiễn, không chủ quan, không ngộ nhận, tức là không được phép kiêu ngạo cộng sản như Lênin đã chỉ rõ. Bài học của thế giới và thực tiễn cách mạng của nước ta đã cho thấy tự kiêu tự đại là thất bại.

Nhìn ra bên ngoài, các nước theo đuổi con đường Xã hội chủ nghĩa cũng đặt tên nước khác ta và nhiều người cho rằng, tên Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ giúp Việt Nam có được nhiều lợi thế trong quan hệ với bên ngoài?

Tôi nghĩ bạn bè quốc tế cũng rất vui đón nhận tên gọi nói trên vì thấy Việt Nam tự nhận thức đúng giai đoạn phát triển hiện tại của mình, chặng đường mà mình đang đi.

Nhìn ra thế giới, nước bạn láng giềng của ta là Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, họ không cần lấy tên nước là xã hội chủ nghĩa mà họ vẫn đổi mới, khôn ngoan và tài ba để tiến lên như vũ bão, vươn lên hàng thứ 2 thế giới và đang cạnh tranh vị trí số 1 với Mỹ.

Tuy nhiên, nếu thay đổi tên nước cũng kéo theo nhiều hệ lụy như phải thay đổi rất nhiều văn bản, giấy tờ, con dấu, quốc huy… thậm chí có thể phải in lại tiền?

Tôi cũng hiểu và cân nhắc nhiều về điều đó. Tuy nhiên, tôi thấy ở đây, phải đi vào bản chất của vấn đề. Tất cả những việc đó chúng ta có thể chuyển đổi dần, có quá trình. Tất nhiên sẽ có tốn kém một chút nhưng tôi nghĩ cái được sẽ lớn hơn rất nhiều. Cái được lớn nhất là được lòng dân, nghĩa là tạo dựng được vị thế chắc chắn để đi lên mạnh mẽ hơn. Những thứ thu về chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều so với những tốn kém do thay đổi tên nước.

Hơn nữa, cũng sẽ có cách để giảm thiểu chi phí. Chẳng hạn, không nhất thiết ngay tức thì ta phải đổi tiền vì Quốc hội có thể ra một Nghị quyết với nội dung khẳng định, các loại giấy tờ, văn bản, tiền tệ đang sử dụng với tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn có giá trị như tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việc này có thể kéo dài trong 2 năm, 3 năm hoặc 5 năm… để chuyển đổi dần dần. Chúng ta đủ thông minh để giải quyết, xử lý được những chuyện không lớn này.

Điều 4 đã bao hàm ý Đảng lãnh đạo quân đội

Tôi rất hoan nghênh việc đưa ra 2 phương án quy định về yêu cầu sự trung thành của lực lượng vũ trang trong chương Bảo vệ tổ quốc vì đã thể hiện tinh thần khiêm tốn, cởi mở, nghiêm túc trong việc lấy ý kiến sửa Hiến pháp.

Tôi đồng tình phương án 1 là giữ nguyên quy định như Điều 45 Hiến pháp hiện hành. Điều 4 về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn thể xã hội là bao quát nhất, bao gồm cả lãnh đạo lực lượng vũ trang.

Vì thế, không quy định “lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng” thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc Đảng lãnh đạo quân đội cũng như ảnh hưởng đến tình cảm của người dân tới hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ, không ảnh hưởng tới ý chí kiên cường của QĐND Việt Nam.

Còn nếu như cố tình giữ phương án 2 có quy định này thì cũng nên nói lực lượng vũ trang trung thành tuyệt đối với tổ quốc, với nhân dân rồi mới nói tới Đảng.

Tôi xin được nói tới một câu chuyện: Ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam thường gần với dịp tết nguyên đán, cho nên các nơi thường có khẩu hiệu: “Mừng Đảng, mừng xuân”. Đi đến các nơi tôi đều góp ý rằng: Khẩu hiệu nên sửa lại là: “Mừng xuân đất nước, mừng Đảng quang vinh”. Cách gọi này vừa hợp lẽ vừa thân thương.

Theo dantri