Top 14 # Ý Nghĩa Tên Văn Chương Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Uplusgold.com

Ý Nghĩa Của Văn Chương

Ý NGHĨA CỦA VĂN CHƯƠNG

– HOÀI THANH –

I/ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 1/ Tác giả

– Hoài Thanh (1909 – 1982) là nhà phê bình văn học xuất sắc của Việt Nam với nhiều bài nghiên cứu có giá trị. Năm 2000 ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là ” Thi nhân Việt Nam ” (viết cùng với Hoài Chân) in năm 1942 đã đưa tác giả lên vị trí cao, xứng tầm một nhà phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.

– Văn phê bình của Hoài Thanh thoáng gọn và đầy ý vị: tác giả chỉ quan tâm và biết nói những điều đáng nói (GS. Hoàng Ngọc Hiến).

– Trong số các nhà phê bình văn học của Việt Nam, Hoài Thanh đã định hình và khẳng định được phong cách phê bình rất rõ nét và đặc sắc. Chính ông có lần đã từng nói: “Chớ vội đi tìm cái gọi là phong cách. Hãy cứ nghiên cứu thật sâu, thật kĩ, gắng phát hiện những vấn đề ẩn khuất bằng cả tâm hồn và trí tuệ của mình, kì thật chín. Sau đó hãy cầm bút. Và hãy cố biểu đạt sao cho chính xác nhất, gọn nhất ý tưởng của mình. Lúc này, phong cách tự nó sẽ đến. Không phải mất công tìm kiếm gì cả. Bởi vì phong cách chính là tổng thể quá trình sáng tác đó”. Thật đúng vậy, phong cách Hoài Thanh toát lên từ toàn bộ cuộc đời và văn nghiệp của ông. Và “Con người Hoài Thanh giản dị và giàu tình như thế nào thì phong cách viết của anh như vậy” (Vũ Đức Phúc). Đó là một lối phê bình thiên về duy cảm, tinh tế, trang nhã, tài hoa nhưng cũng không kém phần sắc sảo.

– Đây là văn bản nghị luận.

II/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH CẢM THỤ VĂN BẢN 1/ Về nội dung

– Bài ” Ý nghĩa của văn chương” mang lại cho người đọc những khám phá, những hiểu biết mới mẻ về một lĩnh vực văn hoá có từ lâu đời. “Văn chương” trong bài được hiểu theo nghĩa hẹp đó là những tác phẩm văn học bằng nghệ thuật ngôn từ, là vẻ đẹp của câu thơ và lời văn.

– Qua văn bản, tác giả muốn khẳng định: Nguồn gốc của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là hình ảnh của sự sống muôn hình vạn trạng và sáng tạo ra sự sống, gây những tình cảm không có, luyện những tình cảm sẵn có. Đời sống con người nếu thiếu văn chương sẽ rất nghèo nàn, đơn điệu và tẻ nhạt.

2/ Về nghệ thuật

– Văn nghị luận của Hoài Thanh có nét đặc sắc nhất về nghệ thuật, trong bài vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc, vừa có hình ảnh. Lí lẽ xác đáng về nguồn gốc và công dụng, giá trị nhân bản và tính nhân văn đã được làm sáng tỏ bằng lối viết nhẹ nhàng, biểu cảm, các dẫn chứng thuyết phục cao.

III/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH VĂN BẢN 1/ Bố cục

Văn bản chia làm hai phần:

Phần 1: Từ đầu đến “… muôn loà i”: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương.

Phần 2: Còn lại: ý nghĩa và công dụng của văn chương.

2/ Phân tích cụ thể a/ Nguồn gốc văn chương (phần 1)

– Mở đầu văn bản, tác giả mượn câu chuyện đời xưa như một hình thức dụ ngôn để đặt ra vấn đề nguồn gốc của văn chương: “Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca”. Cách vào đề như vậy phản ánh rõ nét phong cách phê bình của Hoài Thanh: rất tự nhiên, mềm mại, tinh tế và tài hoa.

– Theo Hoài Thanh, “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài”.

– Việc tác giả dùng hai từ “cốt yếu” đế cho người đọc thấy rõ nguồn gốc chính, quan trọng nhất nhưng chưa phải là tất cả. Để có một tác phẩm văn chương có giá trị thì cần có sự hội tụ của nhiều yếu tố cấu thành nhưng chung quy nhất là nhờ văn chương để con người biết yêu cái đẹp và yêu con người.

– Nguồn gốc “cốt yếu” có nghĩa là nới bắt nguồn, là yếu tố để hình thành tác phẩm văn chương. Theo Hoài Thanh, nguồn gốc chính của văn chương chính là lòng “thương người” và ” muôn vật muôn loài”. Câu văn đã khẳng định rằng: Văn chương bắt nguồn từ lòng nhân ái. Tất cả mọi vật đều có nguyên nhân nguồn gốc của riêng nó. Và sự thật ấy đã được chứng minh qua nhiều tác phẩm văn chương của các thời đại từ xưa và nay. Nhận định của Hoài Thanh đã đi đến khám phá bản chất giá trị của văn chương chính là tình cảm, điều này trước đây đã có rất nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình khẳng định bằng những cách khác nhau trực tiếp hay gián tiếp: Lê Quý Đôn nói: ” Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần”, Muytxe lại có câu: ” Hãy đập vào tim anh thiên tài là ở đó “…

b/ Ý nghĩa và công dụng của văn chương (phần 2)

– Đoạn tiếp theo của văn bản, tác giả trình bày khá gọn gàng, khúc chiết về ý nghĩa và công dụng của văn chương.

– ” Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Câu văn này khái quát hai ý nghĩa và công dụng cơ bản của văn chương:

+ Văn chương là hình dung của sự sống.

+ Văn chương còn sáng tạo ra sự sống.

– Trước hết, văn chương là hình dung của sự sống: Câu này đề cập đến khả năng phản ánh hiện thực của văn chương thông qua chất liệu ngôn từ. Tác phẩm văn học chính là sự phản ánh thế giới muôn hình vạn trạng bên ngoài thông qua hình tượng văn học cụ thể, sinh động và cảm tính. Thông qua những hình tượng như là máu thịt và linh hồn của tác phẩm, người đọc có thể hình dung ra cuộc sống với đầy đủ hình vẻ, màu sắc cùng với những con người có số phận, tính cách khác nhau. Đọc bài thơ ” Qua Đèo Ngang ” của Bà Huyện Thanh Quan, thiên nhiên chiều tà nơi chia cắt hai miền Đàng trong – Đàng ngoài, như sống dậy, sinh động trước mắt với cỏ cây, đá, lá, với những bóng ngư tiều thấp thoáng:

– Văn chương phản ánh cuộc sống muôn hình vạn trạng, phản ánh hiện thực khách quan thông qua cái nhìn chủ quan của nhà văn. Do vậy Hoài Thanh nói: Văn chương không chỉ là hình dung của sự sống mà còn sáng tạo ra sự sống. Dấu ấn tình cảm của nhà văn, tư tưởng của nhà văn in đậm trong tác phẩm văn chương, do vậy, cuộc sống như được sáng tạo lại qua con mắt của nhà văn và lại tiếp tục được làm giàu thêm, phong phú thêm qua những cảm nhận, tưởng tượng của người đọc.

– Công dụng của văn chương là giúp cho “tình cảm” và gợi lòng “vị tha”. Một tác phẩm có giá trị phải gây cho người đọc những dư vị cảm xúc trong tâm hồn, có thể vui, mừng, buồn, giận… ” Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thề mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực lạ lùng của văn chương hay sao?”.

– Văn chương có thể giáo dục cho con người biết yêu quý những gì gần gũi thân thương nhất như quê hương, gia đình, làng xóm. Văn chương cho ta sự cảm thông sâu sắc tới những người có số phận bất hạnh, những người kém may mắn. Lòng vị tha đồng cảm với những người tốt, người cùng chí hướng, những người dân lao động một nắng hai sương. Nhờ văn chương mà tâm hồn con người được bồi đắp thêm ý chí quyết tâm học tập, rèn luyện, lao động, sáng tạo, ước mơ vươn tới tương lai tốt đẹp phía trước. Nói: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần ” chính là như vậy.

– Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực nào!

– Văn chương làm giàu tình cảm con người.

– Văn chương làm đẹp, làm giàu cho cuộc sống.

– Bài văn của Hoài Thanh là một tác phẩm nghị luận xuất sắc với lối nghị luận hết sức hàm súc, chặt chẽ, giàu cảm xúc và hình ảnh, bài được viết đến nay đã hơn 60 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị.

IV/ TRÍCH YẾU TƯ LIỆU THAM KHẢO TRĂM NĂM NHÌN LẠI HOÀI THANH: GIẢI NỖI OAN VÀ ỨC

Ngày 09 – 7 – 2009, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức Lễ kỉ niệm 100 năm sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909 – 1982). Đây là dịp để chúng ta tiếp tục khẳng định tầm vóc, thân thế và sự nghiệp lớn lao của ông trong nền văn học Việt Nam.

Hoài Thanh tên thật là Nguyễn Đức Nguyên, sinh ngày 15-7 – 1909 tại xã Nghi Trung, huvện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Với nhiều công hiến to lớn của mình cho văn học Việt Nam, năm 2000, nhà văn Hoài Thanh đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

1/ Mười năm Thơ mới là cả một thời đại. Thời đại của sự giải phóng tình cảm cá nhân, của sự tự do nảy nở cá tính sáng tạo.

Tác giả “Thi nhân Việt Nam” đã viết một cách sảng khoái, tự tin: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thống, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Từ người này sang người khác sự cách biệt rõ ràng. Cá tính con người bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu bỗng được giải phóng. Sự giải phóng có thể tai hại ở chỗ khác, ở đây nó chỉ làm giàu cho thi ca. Cái sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm nhất đán tung bờ vỡ đê. Cảnh tượng thực là hỗn độn”.

Hoài Thanh (cùng với người em là Hoài Chân) thực đã hồn nhiên và táo bạo khi tự đứng ra làm tuyển ” Thi nhân Việt Nam”. Nhưng ngẫm kĩ thấy đó cũng là điều tự nhiên. Nhà phê bình tuổi trẻ ngang như các nhà Thơ mới cùng lứa. Các nhà thơ có tài làm thơ, còn nhà phê bình thơ có tài thẩm thơ. Họ đồng điệu tâm trạng và cảm xúc trong thời họ sống. Họ đầy nhiệt tình và tự tin trong thơ ca. Và họ được sáng tạo như để sống và để chết. Bởi đó mới có “Thi nhân Việt Nam ” như một tổng kết của phong trào Thơ mới, như một tuyển tập những bài thơ hay, như một đài thư tôn vinh những người thơ tài năng.

Nói tới Thơ mới không thể không kể tới Hoài Thanh và công trình để đời này của ông bên cạnh các thi nhân lừng danh với các thi phẩm nổi tiếng của họ. Thử hỏi, ở xứ ta văn học hiện đại đã có một tuyển thơ nào có một giá trị chứng nhận lớn lao như vậy chưa? Giới thiệu một tác giả thư chỉ cần một dòng đề trong tiếểu sử: “C ó tên trong Thi nhân Việt Nam “, thế là đủ tăng thêm vinh dự cho tác giả và tăng độ tin thư cho độc giả.

Không phải Hoài Thanh đã tuyển chọn mười phân vẹn mười được cả. Không phải những người khác không có tên trong tập tuyển là đều không đáng chú ý. Nhưng cứ ” Có tên trong Thi nhân Việt Nam” là như một bảo đảm chắc chắn rồi. Cho mãi đến sau này, khi gợi nhớ lại nữ sĩ Ngân Giang bị lãng quên trên thi đàn, một nhà ngôn ngữ học có tiếng đã phải ngậm ngùi cho nữ sĩ là “nổi tiếng từ 1930 – 1945 mà ” Thi nhân Việt Nam” không kịp nhắc đến”. Được đảm bảo bằng “T hi nhân Việt Nam “, đời một nhà phê bình còn gì sung sướng và tự hào hơn thế nữa.

Mới hay phê bình rất cần tự do. Tự do lựa chọn cái mình thích theo chuẩn của mình. Tự do khen chê thưởng thức, bình giá theo ý mình, theo năng lực và năng lượng cảm xúc của mình. Tự do chịu trách nhiệm sự thẩm bình và đánh giá của mình. Hoài Thanh không bị ràng buộc gì khi làm “T hi nhân Việt Nam ” ngoài hai điều ông tự ràng buộc mình: “Khi xem thơ chỉ biết có thơ” và “Giữ lòng ngay thẳng, ít nhất là trong văn chương”.

Sau này nhà phê bình về già cũng có lúc có ý định làm một tuyển “Thi nhân Việt Nam mới “. Nhưng ông lấy làm buồn vì bận nhiều công việc mà đã không thực hiện được ý định. Song, nếu ông có bắt tay vào làm thì chắc cũng vất vả, khó nhọc lắm, phần vì thực trạng thơ ca đã khác, phần vì nhiều hệ lụy sẽ níu kéo ông, khi đó hai điều ông tự ràng buộc mình sẽ có cơ bị nới lỏng hoặc đứt mất.

2/ Sinh thời, tôi nghĩ, ông có một nỗi oan và một nỗi ức. Nỗi ức là từ năm 1935 khi ông cho rằng “văn chương là văn chương”, viết văn phải có phẩm tính văn, những sự tải đạo trong văn cũng là cần, nhưng nếu người viết văn chỉ thế thôi thì chỉ mới là người cầm bút, chưa phải nhà văn, chỉ vì thế mà ông bị cáo buộc là theo phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, là đứng về giai cấp phú hào, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân lao động. Ông quyết không chịu bị quàng vào mình cái tiếng ấy, và cực lực phản đối.

Dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của ông hôm nay, đọc lại tập những bài viết của Hoài Thanh trên báo Tràng An những năm 1935 – 1936 mới được sưu tập, in ra, độc giả sẽ thấy ông hoàn toàn là nhà văn vị nhân sinh nhưng vẫn rất bảo vệ chất văn, chất nghệ thuật của văn chương, cái mà thiếu đi thì văn chương không còn là văn chương nữa. Nỗi ức này còn để lụy cho ông nỗi oan cuối đời. Nỗi oan trong câu thơ vẽ chân dung ông: “Vị nghệ thuật nửa cuộc đời/ Nửa đời sau lại vị người ngồi trên ” của Xuân Sách. Thực hư chuyện này chỉ cần mở ra đọc lại các bài ông bình thơ của các nhà thơ từng ở những vị trí lãnh đạo thời ông sống sẽ có câu trả lời thỏa đáng. “Khi xem thơ tôi chỉ biết có thơ” đó là điều “thiên lương” mà tôi chắc ông đã cố giữ gìn, nâng niu.

Tưởng nhớ ông 100 năm ngày sinh, thiết thực nhất là ta nghe lại những lời ông nói năm 1935 trên báo Tràng An để chấm dứt cuộc biện luận đã khiến ông mang nỗi ức mãi về sau: “Mục đích của tôi, trong cuộc biện luận này, không có gì khác hơn là yêu cầu cho nhà văn được hưởng một tí tự do (…) Ngoài bao nhiêu sự ràng buộc của tự nhiên, của pháp luật, tôi không muốn thêm một sự ràng buộc của dư luận nữa. Tài là vật quý, quý nhất trong đời này. Làm sao người ta lại nỡ lấy những phép tắc, những khuôn sáo, những sự ngu muội giữa đời mà kiềm thúc, mà hạn chế cái tài là vật bản tính ở trên hết mọi phép tắc, mọi khuôn sáo?”.

Theo Nguyễn Xuân Nguyên – Thể thao & Văn hóa

VAI TRÒ CỦA TÌNH CẢM TRONG VĂN CHƯƠNG

Người ta đã nói nhiều và sẽ còn nói nữa, nói mãi về vai trò của văn chương đối với con người và cuộc sống. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:

Trải đất rộng thềm ra một phần bởi các trang thơVì diện tích tâm hồn các nhà thi sĩ.

Văn chương quả là món ăn tinh thần thiết yếu, thường xuyên của con người trong xã hội. Thưởng thức văn chương là hoạt động hằng ngày của hàng triệu, hàng triệu con người thuộc các lứa tuổi, các dân tộc, các tầng lớp khác nhau trên hành tinh chúng ta. Có thể kể ra muôn vàn minh chứng cho điều này. Chẳng hạn ảnh hưởng của Đích-ken đối với dân tộc Anh cuối thế kỉ XIX. “Trong khi ấy – Xtê-phan Xvai-gơ kể lại – họ (những người sùng bái Đích-ken) không thể bắt mình chờ ở nhà trong ngày bưu phẩm tới, cho đến khi lại có cuốn sách nhỏ màu xanh, mới xuất bản. Suốt cả tháng họ thèm thuồng ước mơ về cuốn sách đó, kiên trì, hi vọng, tranh cãi… Và thế là cuối cùng đành chờ đợi người đưa thư đi xe ngựa tới và sẽ giải tất cả những câu đố thú vị ấy. Năm này qua năm khác trong cái ngày long trọng đó những người già và người trẻ đi bộ hàng dặm để đón người đưa thư chỉ cốt nhận được cuốn sách sớm hơn. Ngay trên đường về họ bắt đầu đọc, liếc nhìn nhau qua vai, họ đọc to lên, và chỉ có những người tử tế nhất mới chạy ba chân bốn cẳng về nhà để chia sẻ với vợ con những điều mình vừa tìm được… Khi Đích-ken quyết định phát biểu công khai với tư cách là người đọc và lần đầu tiên mặt đối mặt với độc giả của mình, nước Anh tựa như say rượu. Các phòng đều bị đột kích chật ních; những người hâm mộ thú vị leo trèo lên các cột, chui cả dưới bục của sân khấu cốt chỉ được nghe nhà văn yêu mến”. Đây là chuyện xảy ra với người lớn, còn đối với trẻ em? Nhà văn Liên Xô trước đây Cooc-nây Tru-côp-xki có kể một câu chuyện thật xảy ra với ông ở Alupka vào năm 1929: “Bọn trẻ đang mệt nhoài vì nóng bức. Chúng la hét inh ỏi. Một phụ nữ vụng về cứ quang quác mắng chúng, nhưng chẳng làm sao chúng im tiếng cho. Tôi vừa ở xa đến. Muốn các em vui lên, tôi bèn đem truyện “Muynkhaoden” ra đọc cho các em nghe. Chỉ sau hai phút đồng hồ bọn trẻ kêu lên vì sung sướng. Nghe tiếng reo mừng rỡ của chúng, lần đầu tiên tôi thật sự hiểu rằng cuốn truyện vui này đối với các em chín tuổi là món quà ngon miệng như thế nào và cuộc sống của trẻ thơ sẽ mờ đục biết bao nếu như không có cuốn sách nói trên. Với lòng biết ơn vô cùng trìu mến đối với tác giả cuốn sách, giữa tiếng cười vang của bọn trẻ, tôi đọc cho chúng nghe nào là cái rìu bay vút lên cung trăng, nào là những cuộc phiêu lưu lên chín tầng mây, nào là chân ngựa cắt rời ra mà người ta chăn nuôi trên cung trăng. Và khi tôi ngừng đọc một phút bọn trẻ lại nhao nhao “Đọc tiếp đi, chú!”

Có thể xem đó là những dẫn chứng tiêu biểu xác nhận vị trí của văn chương trong đời sống con người. Chính tính truyền cảm, và gắn bó với nó là tính hình tượng làm nên ưu thế đặc biệt của văn chương nhất là khi nhân loại đang bị đe doạ bởi xu hướng kĩ trị như hiện nay.

Trong kho tàng ca dao Viêt Nam có nhiều viên ngọc lung linh ánh sáng. Một trong những viên ngọc ấy là bài ca dao bình dị viết về bông sen bình dị:

Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.

Có màu sắc, lại có cả hương thơm. Riêng màu sắc mới hài hòa làm sao! Chúng nằm cạnh nhau, tôn nhau lên để cho mọi yếu tố đều có sức cuốn hút đến ngỡ ngàng! Đủ chưa? vẫn chưa đủ! Nếu câu thứ hai đi từ ngoài vào trong, từ “lá xanh”, “bông trắng”, tới “nhị vàng” thì câu thơ thứ ba lại đi từ trong ra ngoài:

Nhị vàng, bông trắng, lá xanh.

Ôi, kĩ càng và thận trọng làm sao! Khó tính đến thế làm sao những người khó tính ở đời không tin cho được. Khi vẻ đẹp hình thức đã hoàn toàn thuyết phục thì vẻ đẹp phẩm chất đột nhiên phát lộ ra bên ngoài ngời ngợi:

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Bông sen đẹp cả sắc hương lẫn sự tinh khiết, cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong. Đó chính là vẻ đẹp bình dị của người nông dân chân lấm tay bùn đã làm nên bao giá trị trên đời trong đó có cả những câu ca dao sáng ngời kia đó. Chỉ cần đọc một lần trong đời những tác phẩm như vậy ta rung động và nhớ mãi. Nói về sức sống bất diệt của những tác phẩm văn chương đã chinh phục trái tim và khối óc của hàng triệu người đọc, thi hào Anh Bai-rơn đã viết: “Lạ lùng thay! Vài câu nói không to lên thành tiếng mà viết ra lại có thể trở thành một mắt xích bền lâu trong chuỗi dài năm tháng. Thời gian, sẽ thu nhỏ con người mảnh khảnh lại trong một phân tấc mỏng manh, ấy vậy mà một mẩu giấy con, một tí xíu thôi, như mẩu giấy này chẳng hạn, lại sống dai hơn con người, lâu hơn cả nấm mồ con người, lâu hơn bất cứ cái gì thuộc về con người”.

Những tác phẩm lớn như thế góp phần làm cho con người phát triển toàn diện mà trước hết là có sự hài hòa giữa lí trí và tình cảm, nhận thức và cảm xúc. Không phải vô cớ câu nói của văn hào Đôx-tôi-ep-xki “Cái đẹp cứu rỗi thế giới” đặc biệt vang lên trong thời đại chúng ta, khi nhân loại đang bước vào ngưỡng cửa của thiên niên kỉ mới. Quả thật, khi con người không biết rung động trước cái đẹp yếu ớt, cái đẹp mong manh liệu thế giới của chúng ta rồi sẽ ra sao đây! Có lần, tại diễn đàn hội nghị chuyên đề về thơ Á – Phi tổ chức tại Ê-rê-van (Liên Xô trước đây) vào năm 1973, nhà thơ Chế Lan Viên đã vẽ lên một thế giới không có thi ca: “Các bạn hãy tưởng tượng một thế giới không có lộc non cây xanh; tiếng cười, của trẻ con và của suối, không có tiếng hót của loài chim và mùi hương của các loài hoa, ở xứ sở ấy, những dãy núi khi người ta cất lên lời không có tiếng vang đáp lại… Không, không ai vì thế mà chết cả, trong xứ sở ấy. Người ta vẫn tiếp tục sống – đúng hơn – tiếp tục tồn tại như thường. Chỉ có điều trong xứ sở ấy, những đôi trai gái chẳng hôn nhau mà cũng chẳng hôn hoa. Và không bao giờ người ta nhỏ lệ trước máu đổ ra của đồng loại. Người di chuyển như đồ vật. Và con số, và tín hiệu và mật mã là tất cả ngôn ngữ ở xứ ấy.”

Trái tim sắt đá, trí tuệ lạnh lùng đó chính là tai họa khủng khiếp cho nhân loại. Tình cảm, trong đó có tình cảm thẩm mĩ, tình cảm văn chương có ý nghĩa vô cùng đặc biệt và lâu dài. V.L. Lê-nin từng khẳng định: “Đã, đang và sẽ không bao giờ có thể có sự tìm tòi chân lí của nhân loại nếu không có cảm xúc của con người” – Xêtrênôp cũng chỉ rõ sức mạnh của cảm xúc khi chơ rằng: “Chúng ta không hề biết một thứ ý chí lạnh lùng bất định nào”, ở một góc độ khác có thể nhấn mạnh đến tính tích cực xã hội của tình cảm. Động lực của cảm xúc trong việc thúc đẩy hành động được biểu hiện sinh động và đầy sức thuyết phục qua ý tưởng của bài thơ: ” Con hỏi cha ” của Chế Lan Viên. Bài thơ được cấu tứ bằng hệ thống những câu hỏi hồn nhiên của đứa con với người cha theo sự tăng tiến của mức độ vấn đề và cường độ cảm xúc.

Con hỏi cha: “Bom có giết chết mèo?”

Mèo, chó… những con vật vốn thân thuộc với cuộc sống hằng ngày của trẻ thơ nên lòng người cha sao có thể dửng dưng! Tuy trái tim người cha mới khẽ rung lên. Người cha còn đủ điềm tĩnh để nhắc nhở đứa con:

“Có!” Khi xuống hầm, con hãy nhớ mang theo.

Câu thứ hai của người con:

Con lại hỏi: Bom có giết thỏ cao su và ngựa gỗ?”

Mèo, chó đã gần gũi với con trẻ nhưng đồ chơi, những thỏ cao su và ngựa gỗ gần gũi với con trẻ hơn. Phản ứng tình cảm của người cha ra sao? Im lặng. Một sự im lặng chất chứa yêu thương và căm thù. Người cha không trả lời. Nhà thơ buông ra một lời cảm thán:

Ôi! Đồ chơi trẻ bao lần hoen máu đỏ!

Đó là câu hỏi thứ hai. Câu hỏi thứ ba là gì đây?

Con hỏi cha: Bom có giết mẹ không?”.

Hiển nhiên là câu hỏi ở tầm mức mới, cao hơn hẳn hai câu hỏi đầu tiên, vì có đứa trẻ nào trong đời lại không thương mẹ – người đã đứt ruột đẻ ra mình, ấp iu, chăm sóc mình ngay từ tấm bé. Và hẳn nhiên sự bộc lộ cảm xúc ở người cha cũng phải ở một cường độ mới:

“Không”. Và cha ôm con, nước mắt lưng tròng!

Không thể im lặng thêm một lần nữa (Người con sao chịu nổi!) nhưng câu trả lời lại không đúng sự thật. Không, bom không thể giết mẹ – người trần mắt thịt – đâu! Sao đứa con có thể chấp nhận, vì lẽ đứa con sẽ không chịu nổi. Ôi, trái tim trẻ thơ, non dại dường kia! Tuy hành động sau đó của người cha lại nói một điều ngược lại. Không, bằng cảm tính, đứa con sẽ cảm được, đúng hơn là sẽ cảm hiểu được cái điều mà người cha đang bị nỗi đau giằng xé kia hành hạ – người cha ấy không thể nói ra bằng lời. Đứa con chắc không chịu nổi! Từ đây, nhà thơ chủ động đẩy đến đỉnh điểm:

Con lại hỏi: Bom có thể giết chết con không đấy?”

Câu hỏi như kéo dài ra, nhức nhối, thật đột ngột mà cũng rất hợp quy luật. Câu kết như là sự phát triển tự nhiên của mạch thơ:

Đừng có hỏi, con ơi, đừng có hỏi Để ngày mai cha ra trận cho con.

Câu thơ đóng lại, nhưng suy tưởng của người đọc được mở ra. Rồi chân lí giản đơn hiện lên rõ mồn một: Phải có tình cảm, tình cảm ở mức cao, mức sâu, con người mới có thể hành động để cải tạo thế giới này.

Soạn Bài: Ý Nghĩa Văn Chương

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Hoài Thanh (1909 – 1982), quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông là nhà phê bình văn học xuất sắc. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thi nhân Việt Nam, in năm 1942.

2. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là hình ảnh của sự sống muôn hình vạn trạng và văn chương sáng tạo ra sự sống, gây những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có. Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất nghèo nàn.

3. Bài văn của Hoài Thanh có lối lập luận chặt chẽ, vừa giàu cảm xúc vừa có hình ảnh.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Theo Hoài Thanh, nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài.

2. Hoài Thanh viết : “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”.

Văn chương là hình ảnh của cuộc sống đa dạng và phong phú. Văn chương phản ánh cuộc sống. Cuộc sống đa dạng cho nên hình ảnh được phản ánh trong văn chương cũng đa dạng. Qua văn chương, ta biết được cuộc sống, mơ ước của người Việt Nam xưa kia, ta cũng biết cuộc sống của các dân tộc khác trên thế giới.

Văn chương còn sáng tạo ra sự sống. Qua tác phẩm văn chương, ta biết một cuộc sống trong mơ ước của con người. Đó là ước mơ con người có sức mạnh, lớn nhanh như Phù Đổng để đánh giặc; con người có sức mạnh để chống thiên tai lũ lụt như Sơn Tinh ; con người có khả năng kì diệu như Mã Lương sáng tạo ra vật dụng và phương tiện trừng trị kẻ thù.

3. Theo Hoài Thanh, công dụng của văn chương là giúp cho con người có tình cảm và gợi lòng vị tha. Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tĩnh cảm ta sẵn có. Văn chương luyện những tình cảm gia đình, anh em, bè bạn, tình yêu quê hương, đất nước. Văn chương gây cho ta tình cảm vị tha, tình cảm với những người tốt, người cùng chí hướng, những người lao động trong cộng đồng và trên thế giới nói chung. Ví dụ đọc truyện Cây bút thần, ta yêu mến nhân vật Mã Lương, căm ghét tên địa chủ và tên vua tham lam.

4. a) Văn bản Ý nghĩa văn chương thuộc loại văn nghị luận văn chương, vì nội dung bàn đến là ý nghĩa, công dụng của văn chương.

b) Bài văn có nét đặc sắc về nghệ thuật là vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc và hình ảnh. Ví dụ đoạn mở đầu, hay đoạn nói về mãnh lực của văn chương.

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Phân Tích Tác Phẩm Ý Nghĩa Văn Chương

Tham khảo ngay…!

I. Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm

1. Tác giả Hoài Thanh

– Hoài Thanh (1909 – 1982) là một nhà phê bình văn học Việt Nam, đã có những đóng góp về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ XX.

– Các tác phẩm nổi bật: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam 1932 – 1941 (1941), Tuyển tập Hoài Thanh (2 tập, 1982 – 1983), Di bút và di cảo (1993)…

– Một số đánh giá tiêu biểu của Hoài Thanh:

+ “Một đời làm văn tôi chỉ tìm cái hay cái đẹp để bình. Đó là điều ham muốn của tôi. Vậy mà tôi đã vấp phải khối chuyện phiền: kẻ yêu, người ghét. Thậm chí tôi còn bị vu cáo, bị nói oan. Tôi biết vậy nhưng không thể sống khác, viết khác cái tạng của mình. Điều mà tôi có thể hoàn toàn yên tâm và tự hào trước lúc đi xa là tôi đã sống và viết hoàn toàn trung thực.”

+ “Một dân tộc khinh miệt cá nhân, không biết đến cá nhân, không thể có được nền văn chương phong phú là sự tất nhiên vậy”, “Nếu bây giờ ta muốn cho văn chương ta ngày một thêm phong phú, cần nhất phải để cho nhà văn được tự do”

+ “Nói cho cùng, nghệ thuật nào mà chẳng vị nhân sinh, không vì cái sinh hoạt vật chất thì cũng vì cái sinh hoạt tinh thần của người ta”.

+ “Khát vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo, khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành thực. Một khát vọng khẩn thiết đến đau đớn.”

+ “Cuộc sinh hoạt vật chất như một tấm màn đen ngăn tri giác người ta với thâm chân. Vén tấm màn đen ấy, tìm những cái hay, cái đẹp, cái lạ trong cảnh trí thiên nhiên và trong tâm linh người ta, rồi mượn câu văn, tấm đá, bức tranh làm cho người ta cùng nghe, cùng cảm, đó là nhiệm vụ của nghệ thuật, và nói riêng ra, cũng là nhiệm vụ của văn chương.”

2. Tác phẩm Ý nghĩa văn chương

– Bố cục gồm 3 phần:

+ Phần 1 (từ đầu đến “muôn vật, muôn loài”): Nguồn gốc của văn chương

+ Phần 2 (tiếp đó đến “gợi lòng vị tha”): Nhiệm vụ của văn chương

+ Phần 3 (còn lại): Công dụng của văn chương

– Nội dung chính: Hoài Thanh khẳng định nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là hình ảnh của sống muôn hình vạn trạng và sáng tạo ra sự sống, gây những tình cảm không có, luyện những tình cảm sẵn có. Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất nghèo nàn.

– Đặc sắc nghệ thuật: Giàu hình ảnh độc đáo, lối văn nghị luận vừa có lí lẽ vừa có cảm xúc

II. Lập dàn ý phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương

1. Mở bài phân tích Ý nghĩa văn chương

– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:

+ Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc của Việt Nam với nhiều bài nghiên cứu có giá trị trong đó nổi tiếng nhất là “Thi nhân Việt Nam” (1942).

2. Thân bài phân tích Ý nghĩa văn chương

* Luận điểm 1: Nguồn gốc của văn chương

– Tác giả mở đầu văn bản bằng cách mượn câu chuyện đời xưa như một hình thức dụ ngôn để đặt ra vấn đề nguồn gốc của văn chương: “Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca”.

– Theo tác giả, “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài”.

– Việc dùng hai từ “cốt yếu” để cho người đọc thấy rõ nguồn gốc chính, quan trọng nhất nhưng chưa phải là tất cả. Để có một tác phẩm văn chương có giá trị thì cần có sự hội tụ của nhiều yếu tố cấu thành nhưng chung quy nhất là nhờ văn chương để con người biết yêu cái đẹp và yêu con người.

– Nguồn gốc “cốt yếu” có nghĩa là nơi bắt nguồn, là yếu tố để hình thành tác phẩm văn chương. Theo Hoài Thanh, nguồn gốc chính của văn chương chính là lòng “thương người” và “muôn vật muôn loài”.

– Nhận định của Hoài Thanh đã đi đến khám phá bản chất giá trị của văn chương chính là tình cảm, điều này trước đây đã có rất nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình khẳng định bằng những cách khác nhau trực tiếp hay gián tiếp: “Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần” (Lê Quý Đôn), “Hãy đập vào tim anh thiên tài là ở đó” (Muytxe)…

– Nguồn gốc chủ yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra là lòng thương cả muôn vật, muôn loài

* Luận điểm 2: Nhiệm vụ của văn chương

– Văn chương là sự hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng

+ Văn chương phản ánh hiện thực phong phú, đa dạng của cuộc sống thông qua chất liệu ngôn từ

+ Tác phẩm văn học chính là sự phản ánh thế giới muôn hình vạn trạng bên ngoài thông qua hình tượng văn học cụ thể, sinh động và cảm tính. Thông qua những hình tượng như là máu thịt và linh hồn của tác phẩm, người đọc có thể hình dung ra cuộc sống với đầy đủ hình vẻ, màu sắc cùng với những con người có số phận, tính cách khác nhau.

– Văn chương sáng tạo ta sự sống

+ Văn chương phản ánh cuộc sống muôn hình vạn trạng, phản ánh hiện thực khách quan thông qua cái nhìn chủ quan của nhà văn.

+ Dấu ấn tình cảm của nhà văn, tư tưởng của nhà văn in đậm trong tác phẩm văn chương, do vậy, cuộc sống như được sáng tạo lại qua con mắt của nhà văn và lại tiếp tục được làm giàu thêm, phong phú thêm qua những cảm nhận, tưởng tượng của người đọc.

* Luận điểm 3: Công dụng của văn chương

– Văn chương khơi dậy những trạng thái cảm xúc khác nhau của con người, giúp cho “tình cảm” và gợi lòng “vị tha”

– Gây cho ta những tình cảm không có, luyện cho ta những tình cảm sẵn có

+ Lưu giữ lại dấu vết, lịch sử văn hóa của loài người

– Văn chương giáo dục cho con người biết yêu quý những gì gần gũi thân thương nhất như quê hương, gia đình, làng xóm.

+ Cảm thông sâu sắc tới những người có số phận bất hạnh, những người kém may mắn.

+ Vị tha đồng cảm với những người tốt, người cùng chí hướng, những người dân lao động một nắng hai sương.

+ Bồi đắp thêm ý chí quyết tâm học tập, rèn luyện, lao động, sáng tạo, ước mơ vươn tới tương lai tốt đẹp phía trước.

3. Kết bài phân tích Ý nghĩa văn chương

– Tổng kết giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản: Ý nghĩa văn chương là một tác phẩm nghị luận xuất sắc với lối nghị luận hết sức hàm súc, chặt chẽ, giàu cảm xúc và hình ảnh, bài được viết đến nay đã hơn 60 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị.

III. Giới thiệu những bài văn mẫu hay phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương

1. Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương mẫu 1

Ngay từ nhỏ, chúng ta đã được nghe ông bà kể chuyện cổ tích, nghe mẹ hát ru những bài ca dao – dân ca. Lớn lên, chúng ta được đọc, được học những bài thơ, những truyện ngắn và một vài cuốn tiểu thuyết,… cổ tích, ca dao, những bài thơ, các tác phẩm truyện ấy chính là những áng văn chương. Chúng ta đến với văn chương một cách hồn nhiên, theo sự rung động của tình cảm. Mấy ai đã suy ngẫm về ý nghĩa của văn chương đối với bản thân ta cũng như với mọi người. Vậy văn chương có ý nghĩa gì? Đọc văn thơ, học văn thơ, chúng ta thu lượm được những gì?

Muốn giải đáp những câu hỏi mang tính lí luận sâu rộng rất thú vị ấy, chúng ta hãy đọc bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh – một nhà phê bình văn học có uy tín lớn. Văn bản được viết năm 1936 (in trong sách Văn chương và hành động). Đây là tác phẩm thuộc thể nghị luận văn chương, bàn về những vấn đề thuộc văn chương, khác bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là văn chính luận bàn về vấn đề chính trị xã hội… Vì là đoạn trích trong một bài nghị luận dài nên văn bản chúng ta được học không gồm ba phần hoàn chỉnh: đặt, giải quyết và kết thúc vấn đề. Nổi bật trong văn bản là ba nội dung quan trọng mà tác giả Hoài Thanh gọi chung là Ý nghĩa văn chương: nguồn gốc, nhiệm vụ của văn chương nói chung, của các tác phẩm thơ, văn, kịch nói riêng.

Đi vào văn bản, chúng ta bắt gặp ngay ở phần đầu một câu chuyện đời xưa thú vị. Từ câu chuyện ấy, tác giả giải thích nguồn gốc của văn chương. Theo Hoài Thanh, “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài”. Quan niệm ấy đúng không ? Rất đúng, nhưng không phải là duy nhất. Có nhiều nhà lí luận giải thích: Văn chương bắt nguồn từ lao động, hoặc văn chương bắt nguồn từ những nỗi đau, những khát vọng cao cả của con người… Tuy ý kiến của Hoài Thanh khác với các quan niệm trên, nhưng không đối lập, không loại trừ nhau. Ngược lại, ý kiến của ông đã bổ sung, làm giàu thêm cho một vấn đề quan trọng trong lí luận về nguồn gốc của văn chương.

Do đó, tác giả dùng từ cốt yếu sau từ nguồn gốc để chỉ rõ nguồn gốc chính, nguồn gốc quan trọng của văn chương là lòng thương… Đây là một cách nói mềm dẻo, khéo léo, không áp đặt, cũng không khẳng định quan niệm của mình là bao quát mọi quan niệm khác. Từ ý kiến của Hoài Thanh, tiếp tục suy nghĩ và học tập, lên các lớp trên, chắc chúng ta sẽ được biết sâu thêm về vấn để này.

Từ một câu văn ngắn gọn giải thích nguồn gốc văn chương, nhà văn giải thích tiếp: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Hai câu văn cô dọng nêu ra nhiệm vụ, chức nâng cơ bản của văn chương, tập trung trong hai cụm từ “hình dung của sự sống”, “sáng tạo ra sự sống”. Điều đó nghĩa là gì ? Phải chăng tác giả muốn nói : Văn chương có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống ? Ở đây, hình dung là danh từ, nó có nghĩa như hình ảnh, kết quả của sự phản ánh, sự miêu tả trong văn chương.

Hai câu thơ của Bác Hồ ” Tiếng suối trong như tiếng hát xa – Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” (Cảnh khuya) đã hình dung, phản ánh, tái hiện bức tranh phong cảnh đêm rừng Việt Bắc tuyệt đẹp. Hay qua bài Sài Gòn tôi yêu, tác giả Minh Hương cũng đã hình dung cảnh và người, sự sống rất đáng yếu của mảnh đất Sài Gòn ngọc ngà xưa và nay. Cách hình dung, cách tái hiện, phản ánh cuộc sống của văn chương vô cùng phong phú, muôn hình vạn trạng đúng như Hoài Thanh nói.

Mỗi nhà văn, nhà thơ có cách phản ánh, cách hình dung lại sự sống riêng tuỳ thuộc vốn sống, tài năng và tâm hồn của mình. Tâm hồn của con người thì bao la, vô tận. Do đó, Hoài Thanh viết : “Vũ trụ này tầm thường, chật hẹp, không đủ thoả mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác”. Đó cũng là nhiệm vụ của văn chương: nhiệm vụ sáng tạo. Điều ấy nghĩa là gì ? Nghĩa là: qua các áng văn chương, bằng trí tưởng tượng bay bổng, bằng khát vọng tốt lành, nhà văn dựng nên bức tranh thiên nhiên, bức tranh đời sống vượt trên thực tế, đẹp hơn cuộc đời thực tại.

Miêu tả cảnh đêm rừng Việt Bắc trong bài Cảnh khuya, nhà thơ Hồ Chí Minh mong muốn cuộc kháng chiến lúc bấy giờ sớm thành công để núi rừng Việt Bắc, Tổ quốc Việt Nam sẽ đẹp hơn, cuộc sống của nhân dân sẽ hạnh phúc hơn. Ca ngợi mảnh đất và con người Sài Gòn trong bài Sài Gòn tôi yêu, nhà văn Minh Hương mong muốn “mọi người đều yêu Sài Gòn như tôi”. Tình yêu sẽ thúc đẩy con người làm được nhiều điều tốt đẹp. Yêu Sài Gòn, “mọi người” – trong đó có nhà văn – và bạn đọc sẽ góp phần tích cực tạo ra một Sài Gòn đẹp hơn, đáng yêu hơn.

Sau những áng văn chương, sự sống bao giờ cũng được nối dài, được phát triển trong tâm hồn, ý chí, khát vọng và hành động của bạn đọc… Phải chăng đấy chính là nhiệm vụ “sáng tạo sự sống” của văn chương như Hoài Thanh quan niệm.

Hoài Thanh viết: “Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình… khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu,…”. Nghĩa là văn chương có khả năng lay động tâm hồn, giúp ta biết chia sẻ buồn, vui, đau khổ, hạnh phúc… với mọi người, dắt chúng ta sống gần với nhau hơn trong tình nhân ái, tình thương yêu, đoàn kết giữa con người với con người… “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Rõ ràng, văn chương đã bồi đắp tình cảm tốt đẹp cho người đọc, làm giàu thêm thế giới tâm hồn của chúng ta. Không những thế, văn chương còn góp phần tô điểm biết bao sắc màu, âm thanh làm cho thế giới, con người, cuộc sống được tốt đẹp hơn, đáng yêu hơn. […]

Từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay… Hoài Thanh viết như thế, đã nhấn mạnh thêm công dụng của văn chương. Hiểu và suy ngẫm những ý kiến ấy, rồi liên tưởng tới các áng văn chương đã được đọc, được học, ta thấy quả đúng như vậy. Đọc những bài ca dao tình nghĩa con người, ta càng thêm yêu ông bà, cha mẹ ta hơn.

Qua những bài ca, những câu hát than thân, ta càng hiểu rõ và càng thương cha ông ta, nhất là những người chị, người mẹ Việt Nam ngày xưa. Tương tự như thế, đọc chùm thơ Đường của Lí Bạch, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ, tình yêu quê hương của chúng ta được bồi đắp bởi những cung bậc rung động thật tinh tế. Qua hai bài kí: Một thứ quà của lúa non: Cốm, Mùa xuân của tôi, ta thấm thía thêm biết bao vẻ đẹp của cây lúa Việt Nam, của mùa xuân Hà Nội, mùa xuân Tổ quốc ta,…

Kể sao cho hết, dẫn sao cho cùng những tác dụng, những công dụng kì diệu của văn chương ! Rõ ràng, văn chương đã bồi đắp cho chúng ta biết bao tình cảm trong sáng, hướng ta tới những điều đúng, những điều tốt và những cái đẹp. Văn chương góp phần tôn vinh cuộc sống của con người. Có nhà lí luận nói chức năng của văn chương là đem lại cho con người, hướng con người tới những điều “Chân, Thiện, Mĩ”. Hoài Thanh, tuy không dùng những từ mang tính khái quát như thế, nhưng qua những lí lẽ giản dị, kết hợp những cảm xúc nhẹ nhàng và lời văn giàu hình ảnh, cũng đã nói được khá đầy đủ công dụng, hiệu quả, tác dụng của văn chương.

Nói khác đi, bài viết của Hoài Thanh là những lời đẹp, những ý hay ca ngợi văn chương, tôn vinh tài hoa và công lao của các văn nghệ sĩ. “Nếu pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực nào… !”. Câu cuối văn bản thật thú vị. Tác giả vừa như muốn khẳng định vai trò kì diệu của văn nghệ sĩ vừa nhấn mạnh ý nghĩa của văn chương. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta hãy biết ơn các nhà văn, hãy quý trọng các áng thơ văn nói riêng và văn chương nói chung. Đó là một câu văn hàm nhiều nghĩa, buộc chúng ta phải tiếp tục suy ngẫm…

Tóm lại, với một lối văn nghị luận vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc và hình ảnh, Hoài Thanh đã cho rằng: nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là hình dung của sự sống và sáng tạo ra sự sống, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho chúng ta. Nếu lịch sử nhân loại xóa bỏ văn chương thì sự sống sẽ nghèo nàn vô cùng. Quan niệm như thế có thể là chưa đầy đủ, nhưng đã có những điều cơ bản và đúng đắn, giúp cho chúng ta hiểu rõ: nguồn gốc, nhiệm vụ và công dụng của văn chương. Nhờ đó, chúng ta đọc văn, học văn, hiểu và suy ngẫm về văn chương được sáng tỏ và sâu sắc hơn.

2. Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương mẫu 2

Hoài Thanh tên thật là Nguyễn Đức Nguyên (1909 – 1982), quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa – nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa của văn chương sau này in lại đã đổi tựa đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.

Với một lối văn nghị luận kết hợp hài hòa giữa lí lẽ sắc bén với cảm xúc tinh tế, trong văn bản này, Hoài Thanh khẳng định: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là tấm gương phản ánh cuộc sống muôn hình vạn trạng. Hơn thế, văn chương còn góp phần sáng tạo ra sự sống, gây dựng cho con người những tình cảm không có và luyện những tình cảm sẵn có. Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất nghèo nàn, tẻ nhạt.

Quan niệm đúng đắn đó thể hiện trình độ hiểu biết sâu sắc cùng thái độ yêu quý, trân trọng của tác giả dành cho văn chương. Bố cục bài văn có thể chia thành hai phần. Phần một từ đầu đến “… gợi lòng vị tha“: Đề cập đến nguồn gốc cốt yếu của văn chương. Phần còn lại bàn về vai trò quan trọng và công dụng to lớn của văn chương. Trước khi phân tích bài văn, chúng ta nên tìm hiểu khái niệm văn chương. Vậy thế nào là văn chương?

Học giả Phan Kế Bính đã định nghĩa ngắn gọn rằng: Văn là gì? Văn là vẻ đẹp. Chương là gì? Chương là vẻ sáng. Nhời (lời) của người ta, rực rỡ bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp vẻ sáng, cho nên gọi là văn chương… Theo cách hiểu trước đây thì văn chương nghĩa rộng bao gồm cả triết học, sử học, văn học… Nghĩa hẹp dùng để gọi các tác phẩm văn học, nghĩa hẹp hơn nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời thơ… Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.

Hoài Thanh giải thích nguồn gốc của văn chương bắt đầu bằng một giai thoại hoang đường:

Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, đau thương ấy chính là nguồn gốc thi ca.

Cách mở bài độc đáo như trên đã thu hút sự chú ý của người đọc. Tác giả mượn câu chuyện này để cắt nghĩa nguồn gốc của văn chương. Văn chương thực sự chỉ xuất hiện khi người cầm bút có cảm xúc mãnh liệt trước một tình cảnh hay hiện tượng nào đó trong cuộc sống. Tác giả kết luận: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. Theo ông thì lòng nhân ái bao la chính là nguồn gốc của văn chương.

Đây là lời nhận xét rất đúng đắn. Tuy vậy, bên cạnh nó còn có những quan điểm khác nhau như văn chương bắt nguồn từ cuộc sống lao động của con người hoặc văn chương là nghệ thuật của ngôn từ cuộc sống lao động của con người hoặc văn chương là nghệ thuật của ngôn từ… Các quan niệm này tuy khác nhau nhưng không loại trừ nhau. Ngược lại, chúng bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa.

Để làm rõ hơn nguồn gốc văn chương, Hoài Thanh tiếp tục đưa ra nhận định về vai trò của tình cảm trong sáng tạo của văn chương.

” Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống. Vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, lòng vị tha.“

Ở câu thứ nhất tác giả nhấn mạnh: cuộc sống vốn dĩ thiên hình vạn trạng, văn chương có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống theo đúng quy luật tự nhiên của nó. Văn chương thậm chí góp phần sáng tạo ra cuộc sống, làm cho đời sống ngày càng trở nên tốt đẹp hơn. Ở câu thứ hai, ông khẳng định: Văn chương sáng tạo nên những hình ảnh, những ý tưởng mới lạ, tiến bộ mà trong cuộc sống hiện tại chưa có, để mọi người phấn đấu, biến ý tưởng đó thành hiện thực.

Thực tế cho thấy sự sáng tạo văn chương bắt nguồn từ cảm xúc yêu thương chân thành của nhà văn, nhà thơ. Thông qua văn chương, các tác giả giúp người đọc nhận thức được nhiều điều bổ ích về cuộc sống trong quá khứ cũng như hiện tại. Đọc ca dao, tục ngữ hay thần thoại, cổ tích, chúng ta hình dung được tổ tiên xưa kia sinh sống ra sao trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Những ước mơ, khát vọng chinh phục thiên nhiên; những bài học về đạo lí và kinh nghiệm sống ở đời được gần gũi qua các loại hình văn học cứ thấm dần vào máu thịt, tạo nên đời sống tinh thần phong phú cho mỗi con người.

Văn chương hướng con người tới Chân, Thiện, Mĩ của cuộc đời. Vì vậy nó là món ăn tinh thần không thể thiếu, giúp con người hoàn thiện nhân cách để trở nên hữu ích hơn đối với gia đình và xã hội.

Cách đây hàng trăm năm, ông cha ta đã có câu tục ngữ: Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nguồn gốc của câu tục ngữ trên cũng xuất phát từ lòng nhân ái, từ mục đích muốn con người có cách ăn nói sao cho đúng, cho hay; có cách ứng xử với nhau tốt đẹp hơn.

Câu ca dao: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra được lưu truyền từ đời này sang đời khác, mãi mãi như một lời nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Vì bổn phận, trách nhiệm và lòng hiếu thảo là thước đo phẩm chất đạo đức của con người.

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có biết bao tiếng hát, lời ru, câu chuyện… khuyên nhủ mọi người hãy xây dựng tình cảm gia đình đầm ấm, thuận hòa. Một trong những lời khuyên đó là:

Anh em như chân với tay, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.

Cuộc sống lao động chân lấm tay bùn của người nông dân xưa kia trở nên đẹp đẽ, thơ mộng biết bao trước cái nhìn yêu thương trìu mến đối với con người và thiên nhiên chốn quê nhà:

Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Chỉ bằng hai dòng thơ nhưng tác giả dân gian đã vẽ nên bức tranh sinh hoạt tuyệt đẹp, đó là cảnh thôn nữ tát nước đêm trăng. Ánh trăng tràn ngập khắp nơi, sóng sánh trong từng gàu nước, một gàu nước là một gàu trăng. Cô gái múc nước mà như múc ánh trăng vàng. Sự liên tưởng độc đáo đã tạo ra hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng. Câu hỏi tu từ đầy tính nghệ thuật cũng là cách tỏ tình vô cùng tinh tế của người xưa.

Để ca ngợi vẻ đẹp của làng quê và phẩm chất cao quý của dân quê, ca dao có bài:

Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Bài ca dao ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen. Hoa sen thường mọc trong đầm lầy và trong đầm không hoa nào đẹp bằng sen. Sen là loài hoa hương sắc vẹn toàn. Không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen, bài ca dao còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động, dẫu sống gần bùn mà vẫn giữ được phẩm chất thanh cao, trong sạch. Lòng yêu quê hương tha thiết của người xưa được thể hiện rất rõ qua bài ca dao này:

Bàn về sự hấp dẫn đặc biệt và công dụng to lớn của văn chương, Hoài Thanh viết:… Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những câu chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực lạ lùng của văn chương hay sao?

Đúng vậy! Văn chương khơi dậy những cảm xúc cao thượng của con người. Đọc của Nguyễn Du, bao thế hệ người đọc say mê và vui buồn cùng nhân vật Thúy Kiều. Họ căm giận bọn Ưng Khuyển, Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám sinh bao nhiêu thì thương xót cho số phận nàng Kiều bấy nhiêu và càng ghê tởm cái xã hội tôn thờ đồng tiền: ” Trong tay đã sẵn đồng tiền, Dẫu lòng đổi trắng thay đen, Khó gì!“. Đọc bài văn Cổng trường mở ra của Lí Lan, người đọc hiểu thêm tình thương yêu của mẹ đối với đứa con; hiểu thêm về vai trò quan trọng của nhà trường đối với mỗi con người. Đọc bài thơ Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch, ta càng thấm thía tình quê hương sâu nặng của kiếp người sống trong cảnh xa nhà đằng đẵng suốt bao năm.

Nhận định về tác dụng to lớn của văn chương, Hoài Thanh viết: Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần.

Đây chính là chức năng giáo dục của văn chương. Văn chương nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm con người. Mục đích của văn chương là giúp con người tự khám phá, hiểu biết, nâng cao niềm tin vào bản thân và có khát vọng hướng tới chân lí, hướng tới cái đẹp của cuộc đời.

Đặc điểm của văn chương là nâng con người vượt lên trên những lợi ích vật chất tầm thường. Đi vào thế giới của văn chương, người đọc sẽ cùng sống, cùng chia sẻ vui buồn, sướng khổ với nhân vật. Những giờ phút đến với văn chương, tâm hồn ta thanh thản biết bao ! Có thể nói văn chương đã đem đến cho con người niềm vui lớn lao và một đời sống tinh thần phong phú.

Văn chương thỏa mãn thị hiếu thẩm mĩ của con người bằng vẻ đẹp ngôn từ, vần điệu, bằng kết cấu khéo léo của cốt truyện… nhưng trước hết nó làm rung động tâm hồn người đọc bằng hình tượng nhân vật điển hình trong tác phẩm. Những hình tượng điển hình như Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Huấn Cao, chị Dậu, Chí Phèo… có sức sống muôn đời bởi đó chính là hiện thân đầy đủ nhất, khái quát nhất vui buồn, sướng khổ trong cuộc sống con người.

Văn chương còn dạy cho ta bao điều hay lẽ phải trong cuộc đời, giúp ta ngày một hoàn thiện hơn về nhân phẩm, đạo đức. Văn chương giúp ta nâng cao kiến thức, mở rộng tâm hồn. Vì vậy, văn chương vừa là người bạn thân thiết vừa là người thầy uyên bác, tận tình luôn bên cạnh chúng ta trên đường đời.

Văn chương như một phép màu kì diệu làm cho những thứ bình thường trong cuộc sống bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường: ” Có kẻ nói từ khi thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa quả trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề tài ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay…“.

Chúng ta thử đọc lại bài Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi:

Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai Côn Sơn có đá rêu phơi Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm. Trong rừng thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn…

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên sinh động với dòng suối chảy róc rách, rì rầm như tiếng đàn lúc khoan, lúc nhặt. Phiến đá phẳng phủ rêu xanh mướt, mịn như chiếu êm, thông, tùng mọc như nêm. Rừng trúc bạt ngàn màu xanh tỏa bóng râm che mát hồn người. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trãi, Côn Sơn có một vẻ đẹp riêng, không giống với bất cứ cảnh đẹp ở một nơi nào khác.

Những vần thơ trên giúp chúng ta hiểu thêm cội nguồn tình yêu quê hương, đất nước của thi hào Nguyễn Trãi, đọc Côn Sơn ca, lòng ta xao xuyến, bồi hồi và càng thêm gắn bó với từng mảnh vườn, góc phố quê hương.

Văn chương có vai trò quan trọng và có tác dụng lớn lao như vậy nên nó là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống nhân loại. Thử hình dung một ngày nào đó: Nếu trong pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân và đồng thời tâm linh loài người xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn đến bực nào! Đây chính là giá trị to lớn và vĩnh cửu không có gì có thể thay thế được văn chương. Các thi sĩ văn nhân từ xưa đến nay đã dùng văn chương để tạo dựng nên thế giới tinh thần phong phú của nhân loại.

Như thế là chỉ bằng bốn câu văn bàn uận về văn chương, Hoài Thanh đã giúp chúng ta hiểu thêm về nguồn gốc và vai trò quan trọng của văn chương. Văn chương nâng cao nhận thức, làm phong phú tâm hồn con người. Văn chương làm đẹp, làm giàu cho cuốc sống trên trái đất này.

3. Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương mẫu 3

Nói về văn chương đã có biết bao nhiêu công trình nghiên cứu, định nghĩa, xác định công dụng chức năng của nó đối với đời sống của con người chúng ta. Một trong những bài nghiên cứu ấy phải nói đến Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh. Trong bài viết, những luận điểm rõ ràng về nguồn gốc cũng như chức năng của văn chương sẽ khiến cho chúng ta hiểu sâu hơn về ý nghĩa của nó.

Thứ nhất, tác giả đề cập về nguồn gốc của văn chương. Bằng việc dẫn ra một câu chuyện Ấn Độ, nhà nghiên cứu nhận định đó là nguồn gốc của văn chương. Theo đó, nguồn gốc văn chương xuất hiện khi con người có cảm xúc mãnh liệt trước một hiện tượng đời sống nào đó. Văn chương là niềm xót thương của con người trước những điều đáng thương. Có thể nói nguồn gốc văn chương chính là lòng yêu thương. Vậy văn chương bắt nguồn từ đâu?

Theo Hoài Thanh văn chương bắt nguồn từ cuộc sống lao động hàng ngày từ những bài ca dao về “Trâu ơi ta bảo trâu này…” cho đến những tác phẩm lớn. Không những thế văn chương còn bắt nguồn từ cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa, văn chương còn bắt nguồn bởi những văn hóa, lễ hội truyền thống. Tóm lại văn chương có nguồn gốc từ tình yêu thương của con người đối với cuộc sống. Hoài Thanh đã thật khéo léo khi biến bài nghị luận trở thành một bài văn giàu sức thuyết phục mà vô cùng hấp dẫn. Cách dẫn vào vấn đề của tác giả vô cùng tự nhiên.

Thứ hai, tác giả đề cập đến công dụng và nhiệm vụ của văn chương đối với đời sống con người. Về nhiệm vụ của văn chương Hoài Thanh chỉ ra rằng, văn chương phản ánh hiện thực và sáng tạo hiện thực. Từ hình ảnh chú bé Lượm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu cho đến cánh cò trong ca dao đều phản ánh hiện thực đời sống. Từ truyện Thạch Sanh cho đến truyện Cây bút thần đều phản ánh ước mơ công lý, cải tạo hiện thực đời sống cho người lao động.

Về công dụng của văn chương, Hoài Thanh chỉ ra rằng văn chương giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha; văn chương gây cho ta những tình cảm không có và luyện cho ta những tình cảm sẵn có. Để chứng minh cho điều này, tác giả dẫn ra hai câu chuyện Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài và Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài. Nhà phê bình thật đúng khi nhận định rằng “Một người hàng ngày chỉ lo cặm cụi vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, mừng, buồn, giận cùng với những người ở đâu đâu… hay sao”.

Tóm lại, qua bài viết của nhà phê bình Hoài Thanh ta có thể hiểu rõ về ý nghĩa của văn chương. Nguồn gốc của văn chương chính là lòng thương mến, công dụng của văn chương là gợi lòng vị tha và rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp. Nhiệm vụ của văn chương là phản ánh hiện thực và sáng tạo hiện thực.

4. Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương mẫu 4

Hoài Thanh (1909 – 1982) là cây bút phê bình xuất sắc. Những bài bình của ông rất đặc sắc, tài hoa. Tên tuổi ông trở thành bất tử với tác phẩm Thi nhân Việt Nam (1942). Bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh viết đã trên 60 năm, nhưng ngày nay chúng ta đọc vẫn tìm được nhiều điều thú vị. Hai chữ “văn chương” trong bài văn này mang nghĩa hẹp, đó là tác phẩm thơ văn, là vẻ đẹp của câu thơ, lời văn. Đây là một bài báo ngắn, nên Hoài Thanh chỉ nói được một số điều, một số ý kiến về ý nghĩa văn chương.

Tác giả vào đề bằng một câu chuyện đời xưa kể chuyện một thi sĩ Ấn Độ đã khóc nức nở khi nhìn thấy một con chim bị thương…, tác giả chỉ ra rằng: “Tiếng khóc ấy, nhịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca”. Hoài Thanh vào đề một cách có duyên, nhẹ nhàng, hấp dẫn. Cách mở bài ấy được gọi là “dụ khởi” (lối mở bằng ví dụ, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng có cách mở bài như thế). Từ câu chuyện hoang đường ấy, tác giả nêu rõ nguồn gốc của văn chương là gì. Đó là lòng thương người và rộng ra là thương cả muôn vật, muôn loài. Nói một cách khác, hiểu một cách khác, cảm hứng thơ văn là tình thương.

Ý nghĩa văn chương là “hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống”. Nguồn gốc của văn chương “cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha”. Hoài Thanh đã có một cách nói riêng, chỉ ra hai chức năng của văn chương là nhận thức và giáo dục. Văn học phản ánh hiện thực, nâng cao nhận thức hiện thực, giúp người đọc “hình dung sự sống muôn hình vạn trạng”; văn học còn “sáng tạo ra sự sống”, đó là điều kì diệu của thơ văn. Ví dụ, khi đọc những bài thơ như Khoảng trời, hố bom (Lâm Thị Mĩ Dạ), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)…, ta hình dung được, hiểu được cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta trải qua muôn vàn khó khăn ác liệt, tuổi trẻ Việt Nam rất anh hùng.

Nguồn gốc của văn chương “là tình cảm, là lòng vị tha”; thơ văn đích thực có “mãnh lực lạ lùng” có thể làm cho độc giả vui, buồn, mừng, giận… Đó chính là tính giáo dục của văn chương. Văn chương có tính nhân bản đã góp phần nhân đạo hóa con người. Quan niệm của Hoài Thanh về nguồn gốc, về công dụng của văn chương rất tiến bộ, đúng đắn. Ta yêu kính cha mẹ hơn, hiếu thảo hơn khi đọc bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn”. Ta thầm nhớ công ơn người trồng cây, gieo hạt nhờ họ, ta được nếm hương đời, vị đời:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

Văn chương rất kì diệu, thể hiện những ước mơ, khát vọng của con người, “gây cho ta những tình cảm ta không có (hoặc sẽ có), luyện những tình cảm ta sẵn có” như Hoài Thanh đã nói. Thương người, yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên, say mê học tập và lao động, sáng tạo, mơ ước vươn tới những chân trời bao la…, những tình cảm ấy là do cuộc sống, do văn chương mà tâm hồn ta được bồi đắp.

Văn chương làm cho cuộc đời thêm đẹp, cuộc sống thêm sắc màu ý vị, phong phú hơn, đẹp đẽ hơn. Đúng như tác giả đã viết: “Cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”.

” Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân…!” (Vũ Bằng).

“Khi chén rượu, khi cuộc cờ Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”.

Cuộc đời không thể thiếu văn chương. Văn chương sáng tạo ra cái đẹp, làm cho ta thấy cuộc đời đẹp hơn, đáng yêu hơn. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh gợi cảm để diễn tả ý đó: “từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay”.

Vai trò, vị thế của văn nhân, thi sĩ rất to lớn. Nhân loại, các dân tộc, nếu “xóa các thi nhân văn nhân”, nếu “xóa hết những dấu vết họ còn lưu lại” (tác phẩm) thì xã hội và cuộc đời sẽ “nghèo nàn” đến bực nào! Cảm xúc của Hoài Thanh như tràn ra trang giấy.

Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương, Hoài Thanh đã đưa ra những lí lẽ xác đáng về nguồn gốc và công dụng của thơ văn. Giá trị nhân bản và tính nhân văn của văn chương đã được tác giả nêu bật một cách sáng tỏ. Cách viết nhẹ nhàng, biểu cảm, sử dụng hình ảnh có duyên và đậm đà, do đó lí lẽ của Hoài Thanh nêu ra tuy không mới, nhưng đầy sức thuyết phục.

5. Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương mẫu 5

Tác giả Phan Kế Bính đã định nghĩa văn chương rằng: “Văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng. Lời của người ta rực rỡ bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp vẻ sáng cho nên gọi là văn chương”. Khái niệm văn chương mà Hoài Thanh sử dụng trong tác phẩm này giống với định nghĩa của Phan Kế Bính, tức là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Hoài Thanh đã mở đầu tác phẩm bằng việc giải thích nguồn gốc của văn chương bằng một giai thoại: “Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ thấy một con chim bị thương rơi xuống chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau ấy chính là nguồn gốc của thi ca”.

Nguồn gốc của văn chương không đâu xa chính là xuất phát từ những rung động nhỏ nhất trong trái tim của người thi văn sỹ đối với thế giới. Văn chương không thể có hình và có hồn nếu những cảm xúc bị dối trá. Để kết luận cho ý kiến này, tác giả lại khẳng định một lần nữa: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra là thương cả muôn vật, muôn loài”. Không có gì khác ngoài lòng nhân ái bao la chính là khởi nguyên của văn chương. Đây là một nhận xét rất đúng đắn. Văn chương chính là công cụ để bộc lộ cảm xúc của con người, dẫu yêu hay ghét thì cũng đều xuất phát từ sự nhân ái trong lòng tác giả.

Bên cạnh đó, tác giả cũng đã nhìn nhận thêm về nguồn gốc của văn chương. Ngoài việc bắt nguồn từ lòng bác ái, văn chương còn bắt đầu từ hiện thực cuộc sống. Quan niệm này của Hoài Thanh cũng giống với quan niệm về văn chương của Nam Cao về nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng: “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối… nghệ thuật chỉ có thể phát ra từ những kiếp lầm than trong cuộc sống…”. Ý kiến này đã được tác giả thể hiện thông qua nhận định: “văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng”. Những sự kiện về thế giới xã hội và tự nhiên đều được ghi lại trong văn học, thậm chí có những điều còn được ghi rất chi tiết và cụ thể.

Văn chương đã phản ánh cuộc sống theo đúng quy luật tự nhiên của nó. Điều này có thể thấy trong thực tế bằng việc khi ta đọc các tác phẩm văn học dân gian sẽ biết được cha ông ta ngày xưa đã sống và gây dựng đất nước ra sao, chúng ta cũng hình dung ra một thời bom đạn máu lửa với những câu chuyện cảm động về những người lính,… Chúng ta có thể hình dung ra nhiều mặt của cuộc sống này thông qua những tác phẩm đó. Chính vì lẽ đó mà có ý kiến cho rằng: “văn chương đã mở ra trước mắt tôi một chân trời mới”.

Tổng hợp hai ý kiến trên, ta có thể thấy rằng nguồn gốc của văn chương vừa bắt nguồn từ tình thương và cả hiện thực cuộc sống:”vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, lòng vị tha”. Hai yếu tố trên kết hợp lại với nhau sẽ tạo nên những tác phẩm giàu ý nghĩa.

Văn chương sinh ra trên đời không chỉ bởi nhu cầu bộc lộ tình cảm của con người mà nó còn có những tác dụng to lớn đối với cuộc sống. Hoài Thanh đã chỉ ra rằng “Văn chương là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng… Văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Hai câu văn đã khẳng định được nhiệm vụ của văn chương là “hình dung ra sự sống” và “sáng tạo ra sự sống”. Điều này có nghĩa là mỗi nhà văn với con mắt nhìn cuộc đời khác nhau đã cho ta những hình ảnh về các góc nhìn của cuộc sống. Đều viết về Hà Nội nhưng Vũ Bằng lại có cái nhìn khác Thạch Lam, mỗi người khai thác một phương diện.

Những hình ảnh của cuộc sống được hình dung qua văn chương cũng muôn màu muôn vẻ. Nguyễn Trãi ví tiếng suối như tiếng đàn cầm còn Hồ Chí Minh lại nghe như tiếng hát xa. Cách hình dung, tái hiện cuộc sống vào văn chương vô cùng phong phú. Thế giới này dường như không đủ rộng trong con mắt của những nhà văn. Hoài Thanh viết: “Vũ trụ này tầm thường, chật hẹp, không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác”. Đúng vậy, nhà văn bằng khối óc và trái tim đã sáng tạo nên những thế giới mới, thế giới có cả cái tôi nhà văn và cái ta cộng đồng nhân loại.

Văn chương không chỉ có nhiệm vụ phản ánh thế giới mà quan trọng nhất là sự sáng tạo. Sáng tạo ở đây vừa là khả năng sáng tạo của tác giả văn chương vừa là khả năng sáng tạo của văn chương đối với cuộc sống.

Thế giới được sáng tạo trong văn chương có thể giống hoặc khác so với hiện thực. Nó có thể là thế giới đáng mơ ước như trong các câu chuyện cổ tích như Lọ Lem, Tấm Cám,… nhưng cũng có thể đầy nghiệt ngã như trong các tác phẩm văn học hiện thực của Nam Cao hay các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh. Vậy những tác phẩm ấy sáng tạo ra sự sống bằng cách nào? Xét cho cùng các tác phẩm văn học dù có nói đến cái tốt hay cái xấu trong cuộc sống cũng chỉ với mục đích cải tạo, xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Truyện cổ tích phản ánh ước mơ của con người về một thế giới không còn những bất công, chỉ còn tình yêu thương và hạnh phúc. Đọc các tác phẩm hiện thực hay về chuến tranh để giúp con người nhận ra cái ác, cái xấu trong xã hội để có thể đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó chính là vai trò xây dựng cuộc sống của văn chương sau khi đã phản ảnh rất nhiều mặt của cuộc sống.

Bên cạnh đó, Hoài Thanh còn khẳng định thêm một tác dụng to lớn của văn chương nữa: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm sẵn có; cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”. Thế giới tinh thần con người có lẽ là lãnh địa khó chạm đến nhất. Chúng ta không thể nhìn thấy, cảm nhận hay lắng nghe được bằng những giác quan thông thường. Thế nhưng thật lạ, văn chương lại có thể làm được nhiệm vụ khó khăn đó. Những đứa trẻ biết yêu thương những người thân yêu trong gia đình, biết yêu thương những con vật, cây cối thông qua những câu chuyện kể của ông bà cha mẹ.

Con người biết yêu thương quê hương nguồn cội, yêu thương thế giới xung quanh để có thể yêu thương con người. Chúng ta biết khóc thương cho số phận của Kiều khi phải bán thân, cho cảnh chị Dậu đứt ruột bán con và bán chó. Những tình cảm ấy dễ gì có được ở chính cuộc sống này. Thế nhưng khi đi vào văn chương, khi có cái nhìn rộng lớn hơn, tình cảm con người trở nên bao la hơn với đồng loại của mình.

Thế giới thực của mỗi chúng ta chỉ xoay quanh công việc, người thân và một ít bạn bè. Thế nhưng, khi tìm đến văn chương, ta biết được bên nửa bên kia bán cầu có cô bé bán diêm đáng thương trong đêm Noel, có chú bé chăn cừu nói dối hại thân. Thế giới tri thức mở ra cùng với tình thương yêu. Văn chương thẩm thấu vào tinh thần con người một cách tự nhiên và sâu sắc nên nó được ví như một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với chúng ta.

Văn chương có vai trò quan trọng và lớn lao như vậy nên nó là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống nhân loại. Nếu bức tranh thế giới này mất khi gam màu của văn chương thì sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ và xám xịt biết mấy: “Nếu pho lịch sử loài người xoá các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn đến bậc nào!”. Đây chính là giá trị to lớn và vĩnh cửu không thể nào thay thế của văn chương. Văn chương đã tạo nên một thế giới khác song song với thế giới thực tại của nhân loại.

Với những luận điểm chính xác và đầy tính nhân văn, Hoài Thanh đã giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc và tác dụng của văn chương. Văn chương vừa cung cấp tri thức như những bộ môn khoa học khác và quan trong hơn là khả năng bồi đắp tình cảm, tinh thần cho con người.

Với cách lập luận chặt chẽ, khoa học kế hợp với những cảm xúc tinh tế, ta có thể nhận thấy tình yêu đối với văn chương của Hoài Thanh thông qua tác phẩm này. Qua đây tác giả cũng đã khẳng định được sức sống, sức hấp dẫn muôn đời của văn chương đối với con người.

6. Phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương mẫu 6

Hoài Thanh là một nhà phê bình văn học nổi tiếng của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với bài viết Ý nghĩa văn chương, ông thể hiện quan niệm của mình về nguồn gốc, vai trò và nhiệm vụ của văn chương đối với tâm hồn con người và đời sống. Từ đó, ông xác định vị trí và nhiệm vụ của người nghệ sĩ sáng tác đối với cuộc sống văn chương của con người và đời sống này.

Bài viết có ba luận điểm chính. Thứ nhất, Hoài Thanh xác định nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. Luận điểm này nêu lên quan niệm của Hoài Thanh về nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm. “Cốt yếu” ở đây là nói cái chính, cái quan trọng nhất chứ chưa phải là tất cả. Hoài Thanh cho rằng: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người”. Tức là trước hết văn chương phải là tiếng nói yêu thương giữa con người với con người. Từ đó, suy rộng ra là tình yêu thương đối với “cả muôn vật, muôn loài”. Nói như vậy là rất đúng, rất hợp lí, rất nhân bản.

Cách trình bày quan niệm rất thú vị, độc đáo, hấp dẫn người đọc. Tác giả đã kể một câu chuyện cảm động để dẫn dắt tới vấn đề bàn bạc. Trên thực tế còn có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn gốc văn chương như: văn chương bắt nguồn từ lao động, từ nghi lễ tôn giáo, từ giải trí, mua vui… Các quan niệm này và quan niệm của Hoài Thanh không mâu thuẫn nhau mà có tác dụng bổ sung cho nhau.

Tiếp đến, văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế văn chương còn sáng tạo ra sự sống. Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Cách sử dụng từ “hình dung” rất đắc địa. Một mặt “hình dung” được hiểu là hình ảnh.

Văn chương là hình ảnh của cuộc sống phong phú, văn chương phản ánh sự đa dạng của cuộc sống: thế giới tự nhiên muôn màu, sự biến hóa của cuộc sống xã hội,… Mặt khác, “hình dung” còn giúp người ta nhận thấy quá trình sáng tạo của nhà văn. Nhà văn không bê y nguyên những gì của cuộc sống bên ngoài đặt vào trong trang sách của mình. Cuộc sống bên ngoài được nhìn nhận qua lăng kính của nhà văn và nhà văn sẽ tái hiện nó bằng trí tưởng tượng, bằng cách cảm, cách nghĩ của mình.

Văn chương còn sáng tạo ra sự sống. Cuộc sống được nhà văn trình bày trên trang giấy đã là một sự sáng tạo. Song hơn thế, nhà văn còn sáng tạo ra những thế giới khác, những người, những sự vật khác mà nó chưa có trong thực tế để gọi nó trong thực tế. Chẳng hạn, đó là thế giới tiên cảnh, thế giới siêu nhân, thế giới của những loài chim, chú dế,…

Nhà văn thường dựng lên trong tác phẩm của mình một bức tranh cuộc sống theo lí tưởng thẩm mĩ của mình để mọi người thấy cần phải vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hay nói như nhà thơ Nguyễn Đình Thi: “Nghệ thuật có sứ mạng quan trọng là nâng cao sự hiểu biết của con người, nhưng sứ mạng hết sức quan trọng nữa của nó là nuôi sống tình cảm, làm cho tình cảm con người luôn luôn mới mẻ, như một bông hoa lúc nào cũng như vừa mới nở ra xong, không bao giờ héo”.

Sau cùng, công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha. Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có. Những tình cảm ta không có là những tình cảm mà trước khi đọc tác phẩm văn chương. Những tình cảm đó chưa nảy sinh trong tâm hồn ta như: tình thương đối với những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tình yêu đối với miền đất lạ, niềm xót xa về cảnh ngộ những đứa trẻ lang thang… Nhưng khi đọc văn chương viết về những con người, cảnh tượng, vùng đất ấy,… trong ta nảy nở những xúc cảm mới lạ đó.

Những tình cảm ta sẵn có là những tình cảm luôn thường trực trong tâm hồn ta như: tình thương yêu dành cho cha mẹ, tình yêu đối với thiên nhiên, lòng yêu nước… Văn chương luyện cho ta những tình cảm sẵn có nghĩa là văn chương làm cho những tình cảm ấy đẹp hơn, trong sáng hơn, cao cả hơn.

Với hệ thống luận điểm phong phú, được trình bày cụ thể, rõ ràng, giàu sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ, sáng sủa và giàu cảm xúc; vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc, tác giả đã làm sáng tỏ công dụng và ý nghĩa của văn chương. Văn chương giúp cho người đọc có tình cảm, có lòng vị tha, “gây cho ta những tình cảm không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”, biết cái đẹp, cái hay của cảnh vật, thiên nhiên. Lịch sử loài người, nếu xóa bỏ văn chương thì sẽ xóa bỏ hết dấu vết của chính nó, sẽ nghèo nàn về tâm linh đến mức nào.

Qua quá trình phân tích tác phẩm Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh, chúng ta càng mở rộng thêm hiểu biết về nguồn gốc cốt yếu, ý nghĩa của văn chương trong đời sống. Bên cạnh đó, cũng thấy được tài năng lập luận, phê bình văn học tài tình của Hoài Thanh.

Tâm Phương (Tổng hợp)

Phân Tích Bài Ý Nghĩa Văn Chương Của Hoài Thanh

Phân tích bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh là tài liệu tham khảo môn Ngữ văn 7, dành cho các bạn học sinh tham khảo, nghiên cứu học tập khi phân tích bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh. Các bạn sẽ hiểu sâu được nguồn gốc cốt yếu của văn chương cũng như công dụng to lớn của văn chương khi nghiên cứu tài liệu.

Bài văn mẫu 1: Phân tích bài Ý nghĩa Văn chương

Hoài Thanh tên thật là Nguyễn Đức Nguyên (1909 – 1982), quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Năm 2000, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa – Nghệ thuật. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn Thi nhân Việt Nam, in năm 1942. Bài Ý nghĩa của văn chương sau này in lại đã đổi tựa đề thành Ý nghĩa và công dụng của văn chương.

Với một lối văn nghị luận kết hợp hài hòa giữa lí lẽ sắc bén với cảm xúc tinh tế, trong văn bản này, Hoài Thanh khẳng định: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là tấm gương phản ánh cuộc sống muôn hình vạn trạng. Hơn thế, văn chương còn góp phần sáng tạo ra sự sống, gây dựng cho con người những tình cảm không có và luyện những tình cảm sẵn có. Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất nghèo nàn, tẻ nhạt. Quan niệm đúng đắn đó thể hiện trình độ hiểu biết sâu sắc cùng thái độ yêu quý, trân trọng của tác giả dành cho văn chương.

Bố cục bài văn có thể chia thành hai phần. Phần một: Từ đầu đến gợi lòng vị tha: đề cập đến nguồn gốc cốt yếu của văn chương. Phần còn lại: bàn về vai trò quan trọng và công dụng to lớn của văn chương.

Trước khi phân tích bài văn, chúng ta nên tìm hiểu khái niệm văn chương. Vậy thế nào là văn chương?

Học giả Phan Kế Bính đã định nghĩa ngắn gọn rằng: Văn là gì? Văn là vẻ đẹp. Chương là gì? Chương là vẻ sáng. Nhời (lời) của người ta, rực rỡ bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp vẻ sáng, cho nên gọi là văn chương…

Theo cách hiểu trước đây thì văn chương nghĩa rộng bao gồm cả triết học, sử học, văn học. Nghĩa hẹp dùng để gọi các tác phẩm văn học, nghĩa hẹp hơn nữa là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời thơ… Trong văn bản này, thuật ngữ văn chương được dùng theo nghĩa hẹp.

Hoài Thanh giải thích nguồn gốc của văn chương bắt đầu bằng một giai thoại hoang đường: Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, nhịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca.

Cách mở bài độc đáo như trên đã thu hút sự chú ý của người đọc. Tác giả mượn câu chuyện này để cắt nghĩa nguồn gốc của văn chương. Văn chương thực sự chỉ xuất hiện khi con người có cảm xúc mãnh liệt trước một con người hoặc một hiện tượng nào đó trong cuộc sống

Bài văn mẫu 2: Phân tích bài Ý nghĩa Văn chương

Hoài Thanh (1909 – 1982) là cây bút phê bình xuất sắc. Những bài bình của ông rất đặc sắc, tài hoa. Tên tuổi ông trở thành bất tử với tác phẩm Thi nhân Việt Nam (1942). Bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh viết đã trên 60 năm, nhưng ngày nay chúng ta đọc vẫn tìm được nhiều điều thú vị.

Hai chữ “văn chương” trong bài văn này mang nghĩa hẹp, đó là tác phẩm thơ văn, là vẻ đẹp của câu thơ, lời văn. Đây là một bài báo ngắn, nên Hoài Thanh chỉ nói được một số điều, một số ý kiến về ý nghĩa văn chương. Tác giả vào đề bằng một câu chuyện đời xưa kể chuyện một thi sĩ Ấn Độ đã khóc nức nở khi nhìn thấy một con chim bị thương…, tác giả chỉ ra rằng: “Tiếng khóc ấy, nhịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca”. Hoài Thanh vào đề một cách có duyên, nhẹ nhàng, hấp dẫn. Cách mở bài ấy được gọi là “dụ khởi” (lối mở bằng ví dụ, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng có cách mở bài như thế). Từ câu chuyện hoang đường ấy, tác giả nêu rõ nguồn gốc của văn chương là gì. Đó là lòng thương người và rộng ra là thương cả muôn vật, muôn loài. Nói một cách khác, hiểu một cách khác, cảm hứng thơ văn là tình thương.

Ý nghĩa văn chương là “hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống”. Nguồn gốc của văn chương “cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha”. Hoài Thanh đã có một cách nói riêng, chỉ ra hai chức năng của văn chương là nhận thức và giáo dục. Văn học phản ánh hiện thực, nâng cao nhận thức hiện thực, giúp người đọc “hình dung sự sống muôn hình vạn trạng”; văn học còn “sáng tạo ra sự sống”, đó là điều kì diệu của thơ văn. Ví dụ, khi đọc những bài thơ như Khoảng trời, hố bom (Lâm Thị Mỹ Dạ), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)…, ta hình dung được, hiểu được cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trải qua muôn vàn khó khăn ác liệt, tuổi trẻ Việt Nam rất anh hùng.

Nguồn gốc của văn chương “là tình cảm, là lòng vị tha”; thơ văn đích thực có “mãnh lực lạ lùng” có thể làm cho độc giả vui, buồn, mừng, giận… Đó chính là tính giáo dục của văn chương. Văn chương có tính nhân bản đã góp phần nhân đạo hóa con người. Quan niệm của Hoài Thanh về nguồn gốc, về công dụng của văn chương rất tiến bộ, đúng đắn. Ta yêu kính cha mẹ hơn, hiếu thảo hơn khi đọc bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn”. Ta thầm nhớ công ơn người trồng cây, gieo hạt nhờ họ, ta được nếm hương đời, vị đời:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

Văn chương rất kì diệu, thể hiện những ước mơ, khát vọng của con người, “gây cho ta những tình cảm ta không có (hoặc sẽ có), luyện những tình cảm ta sẵn có” như Hoài Thanh đã nói. Thương người, yêu quê hương đất nước, yêu thiên nhiên, say mê học tập và lao động, sáng tạo, mơ ước vươn tới những chân trời bao la.., những tình cảm ấy là do cuộc sống, do văn chương mà tâm hồn ta được bồi đắp. Văn chương làm cho cuộc đời thêm đẹp, cuộc sống thêm sắc màu ý vị, phong phú hơn, đẹp đẽ hơn. Đúng như tác giả đã viết: “Cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”. “Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân..!” (Vũ Bằng).

“Khi chén rượu, khi cuộc cờ Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Cuộc đời không thể thiếu văn chương. Văn chương sáng tạo ra cái đẹp, làm cho ta thấy cuộc đời đẹp hơn, đáng yêu hơn. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh gợi cảm để diễn tả ý đó: “từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay”.

Bài văn mẫu 3: Phân tích bài Ý nghĩa Văn chương

Tác giả Phan Kế Bính đã định nghĩa văn chương rằng: “văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng. Lời của người ta rực rỡ bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp vẻ sáng cho nên gọi là văn chương”. Khái niệm văn chương mà Hoài Thanh sử dụng trong tác phẩm này giống với định nghĩa của Phan Kế Bính, tức là tính nghệ thuật, vẻ đẹp của câu văn, lời văn. Hoài Thanh đã mở đầu tác phẩm bằng việc giải thích nguồn gốc của văn chương bằng một giai thoại: “Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ thấy một con chim bị thương rơi xuống chân mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng khóc ấy, dịp đau ấy chính là nguồn gốc của thi ca”.

Nguồn gốc của văn chương không đâu xa chính là xuất phát từ những rung động nhỏ nhất trong trái tim của người thi văn sỹ đối với thế giới. Văn chương không thể có hình và có hồn nếu những cảm xúc bị dối trá. Để kết luận cho ý kiến này, tác giả lại khẳng định một lần nữa: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra là thương cả muôn vật, muôn loài”. Không có gì khác ngoài lòng nhân ái bao la chính là khởi nguyên của văn chương. Đây là một nhận xét rất đúng đắn. Văn chương chính là công cụ để bộc lộ cảm xúc của con người, dẫu yêu hay ghét thì cũng đều xuất phát từ sự nhân ái trong lòng tác giả.

Bên cạnh đó, tác giả cũng đã nhìn nhận thêm về nguồn gốc của văn chương. Ngoài việc bắt nguồn từ lòng bác ái, văn chương còn bắt đầu từ hiện thực cuộc sống. Quan niệm này của Hoài Thanh cũng giống với quan niệm về văn chương của Nam Cao về nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng: “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối… nghệ thuật chỉ có thể phát ra từ những kiếp lầm than trong cuộc sống…”. Ý kiến này đã được tác giả thể hiện thông qua nhận định: “văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng”. Những sự kiện về thế giới xã hội và tự nhiên đều được ghi lại trong văn học, thậm chí có những điều còn được ghi rất chi tiết và cụ thể.

Văn chương đã phản ánh cuộc sống theo đúng quy luật tự nhiên của nó. Điều này có thể thấy trong thực tế bằng việc khi ta đọc các tác phẩm văn học dân gian sẽ biết được cha ông ta ngày xưa đã sống và gây dựng đất nước ra sao, chúng ta cũng hình dung ra một thời bom đạn máu lửa với những câu chuyện cảm động về những người lính,… Chúng ta có thể hình dung ra nhiều mặt của cuộc sống này thông qua những tác phẩm đó. Chính vì lẽ đó mà có ý kiến cho rằng: “văn chương đã mở ra trước mắt tôi một chân trời mới”.

Tổng hợp hai ý kiến trên, ta có thể thấy rằng nguồn gốc của văn chương vừa bắt nguồn từ tình thương và cả hiện thực cuộc sống:”vậy thì, hoặc hình dung sự sống, hoặc sáng tạo ra sự sống, nguồn gốc của văn chương đều là tình cảm, lòng vị tha”. Hai yếu tố trên kết hợp lại với nhau sẽ tạo nên những tác phẩm giàu ý nghĩa.

Văn chương sinh ra trên đời không chỉ bởi nhu cầu bộc lộ tình cảm của con người mà nó còn có những tác dụng to lớn đối với cuộc sống. Hoài Thanh đã chỉ ra rằng “Văn chương là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng… Văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Hai câu văn đã khẳng định được nhiệm vụ của văn chương là “hình dung ra sự sống” và “sáng tạo ra sự sống”. Điều này có nghĩa là mỗi nhà văn với con mắt nhìn cuộc đời khác nhau đã cho ta những hình ảnh về các góc nhìn của cuộc sống. Đều viết về Hà Nội nhưng Vũ Bằng lại có cái nhìn khác Thạch Lam, mỗi người khai thác một phương diện.

Những hình ảnh của cuộc sống được hình dung qua văn chương cũng muôn màu muôn vẻ. Nguyễn Trãi ví tiếng suối như tiếng đàn cầm còn Hồ Chí Minh lại nghe như tiếng hát xa. Cách hình dung, tái hiện cuộc sống vào văn chương vô cùng phong phú. Thế giới này dường như không đủ rộng trong con mắt của những nhà văn. Hoài Thanh viết: “Vũ trụ này tầm thường, chật hẹp, không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác”. Đúng vậy, nhà văn bằng khối óc và trái tim đã sáng tạo nên những thế giới mới, thế giới có cả cái tôi nhà văn và cái ta cộng đồng nhân loại.

Văn chương không chỉ có nhiệm vụ phản ánh thế giới mà quan trọng nhất là sự sáng tạo. Sáng tạo ở đây vừa là khả năng sáng tạo của tác giả văn chương vừa là khả năng sáng tạo của văn chương đối với cuộc sống.

Thế giới được sáng tạo trong văn chương có thể giống hoặc khác so với hiện thực. Nó có thể là thế giới đáng mơ ước như trong các câu chuyện cổ tích như Lọ Lem, Tấm Cám,… nhưng cũng có thể đầy nghiệt ngã như trong các tác phẩm văn học hiện thực của Nam Cao hay các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh. Vậy những tác phẩm ấy sáng tạo ra sự sống bằng cách nào? Xét cho cùng các tác phẩm văn học dù có nói đến cái tốt hay cái xấu trong cuộc sống cũng chỉ với mục đích cải tạo, xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Truyện cổ tích phản ánh ước mơ của con người về một thế giới không còn những bất công, chỉ còn tình yêu thương và hạnh phúc. Đọc các tác phẩm hiện thực hay về chiến tranh để giúp con người nhận ra cái ác, cái xấu trong xã hội để có thể đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó chính là vai trò xây dựng cuộc sống của văn chương sau khi đã phản ảnh rất nhiều mặt của cuộc sống.

Bên cạnh đó, Hoài Thanh còn khẳng định thêm một tác dụng to lớn của văn chương nữa: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm sẵn có; cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”. Thế giới tinh thần con người có lẽ là lãnh địa khó chạm đến nhất. Chúng ta không thể nhìn thấy, cảm nhận hay lắng nghe được bằng những giác quan thông thường. Thế nhưng thật lạ, văn chương lại có thể làm được nhiệm vụ khó khăn đó. Những đứa trẻ biết yêu thương những người thân yêu trong gia đình, biết yêu thương những con vật, cây cối thông qua những câu chuyện kể của ông bà cha mẹ.

Con người biết yêu thương quê hương nguồn cội, yêu thương thế giới xung quanh để có thể yêu thương con người. Chúng ta biết khóc thương cho số phận của Kiều khi phải bán thân, cho cảnh chị Dậu đứt ruột bán con và bán chó. Những tình cảm ấy dễ gì có được ở chính cuộc sống này. Thế nhưng khi đi vào văn chương, khi có cái nhìn rộng lớn hơn, tình cảm con người trở nên bao la hơn với đồng loại của mình.

Thế giới thực của mỗi chúng ta chỉ xoay quanh công việc, người thân và một ít bạn bè. Thế nhưng, khi tìm đến văn chương, ta biết được bên nửa bên kia bán cầu có cô bé bán diêm đáng thương trong đêm Noel, có chú bé chăn cừu nói dối hại thân. Thế giới tri thức mở ra cùng với tình thương yêu. Văn chương thẩm thấu vào tinh thần con người một cách tự nhiên và sâu sắc nên nó được ví như một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với chúng ta.

Văn chương có vai trò quan trọng và lớn lao như vậy nên nó là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống nhân loại. Nếu bức tranh thế giới này mất khi gam màu của văn chương thì sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ và xám xịt biết mấy: “Nếu pho lịch sử loài người xóa các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn đến bậc nào!”. Đây chính là giá trị to lớn và vĩnh cửu không thể nào thay thế của văn chương. Văn chương đã tạo nên một thế giới khác song song với thế giới thực tại của nhân loại.

Với những luận điểm chính xác và đầy tính nhân văn, Hoài Thanh đã giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc và tác dụng của văn chương. Văn chương vừa cung cấp tri thức như những bộ môn khoa học khác và quan trọng hơn là khả năng bồi đắp tình cảm, tinh thần cho con người.

Với cách lập luận chặt chẽ, khoa học kế hợp với những cảm xúc tinh tế, ta có thể nhận thấy tình yêu đối với văn chương của Hoài Thanh thông qua tác phẩm này. Qua đây tác giả cũng đã khẳng định được sức sống, sức hấp dẫn muôn đời của văn chương đối với con người.

Bài văn mẫu 4: Phân tích bài Ý nghĩa Văn chương

Nói về văn chương đã có biết bao nhiêu công trình nghiên cứu, định nghĩa, xác định công dụng chức năng của nó đối với đời sống của con người chúng ta. Một trong những bài nghiên cứu ấy phải nói đến Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh. Trong bài viết, những luận điểm rõ ràng về nguồn gốc cũng như chức năng của văn chương sẽ khiến cho chúng ta hiểu sâu hơn về ý nghĩa của nó.

Thứ nhất, tác giả đề cập về nguồn gốc của văn chương. Bằng việc dẫn ra một câu chuyện Ấn Độ, nhà nghiên cứu nhận định đó là nguồn gốc của văn chương. Theo đó, nguồn gốc văn chương xuất hiện khi con người có cảm xúc mãnh liệt trước một hiện tượng đời sống nào đó. Văn chương là niềm xót thương của con người trước những điều đáng thương. Có thể nói nguồn gốc văn chương chính là lòng yêu thương.

Vậy văn chương bắt nguồn từ đâu? Theo Hoài Thanh văn chương bắt nguồn từ cuộc sống lao động hàng ngày từ những bài ca dao về “Trâu ơi ta bảo trâu này…” cho đến những tác phẩm lớn. Không những thế văn chương còn bắt nguồn từ cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa, văn chương còn bắt nguồn bởi những văn hóa, lễ hội truyền thống. Tóm lại văn chương có nguồn gốc từ tình yêu thương của con người đối với cuộc sống. Hoài Thanh đã thật khéo léo khi biến bài nghị luận trở thành một bài văn giàu sức thuyết phục mà vô cùng hấp dẫn. Cách dẫn vào vấn đề của tác giả vô cùng tự nhiên.

Thứ hai, tác giả đề cập đến công dụng và nhiệm vụ của văn chương đối với đời sống con người. Về nhiệm vụ của văn chương Hoài Thanh chỉ ra rằng, văn chương phản ánh hiện thực và sáng tạo hiện thực. Từ hình ảnh chú bé Lượm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu cho đến cánh cò trong ca dao đều phản ánh hiện thực đời sống. Từ truyện Thạch Sanh cho đến truyện Cây bút thần đều phản ánh ước mơ công lý, cải tạo hiện thực đời sống cho người lao động.

Về công dụng của văn chương, Hoài Thanh chỉ ra rằng văn chương giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha; văn chương gây cho ta những tình cảm không có và luyện cho ta những tình cảm sẵn có. Để chứng minh cho điều này, tác giả dẫn ra hai câu chuyện Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài và Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài. Nhà phê bình thật đúng khi nhận định rằng “Một người hàng ngày chỉ lo cặm cụi vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, mừng, buồn, giận cùng với những người ở đâu đâu…hay sao”.

Tóm lại, qua bài viết của nhà phê bình Hoài Thanh ta có thể hiểu rõ về ý nghĩa của văn chương. Nguồn gốc của văn chương chính là lòng thương mến, công dụng của văn chương là gợi lòng vị tha và rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp. Nhiệm vụ của văn chương là phản ánh hiện thực và sáng tạo hiện thực.

Bài văn mẫu 5: Phân tích bài Ý nghĩa Văn chương

Ngay từ nhỏ, chúng ta đã được nghe ông bà kể chuyện cổ tích, nghe mẹ hát ru những bài ca dao – dân ca. Lớn lên, chúng ta được đọc, được học những bài thơ, những truyện ngắn và một vài cuốn tiểu thuyết,… cổ tích, ca dao, những bài thơ, các tác phẩm truyện ấy chính là những áng văn chương. Chúng ta đến với văn chương một cách hồn nhiên, theo sự rung động của tình cảm. Mấy ai đã suy ngẫm về ý nghĩa của văn chương đối với bản thân ta cũng như với mọi người. Vậy văn chương có ý nghĩa gì? Đọc văn thơ, học văn thơ, chúng ta thu lượm được những gì? Muốn giải đáp những câu hỏi mang tính lí luận sâu rộng rất thú vị ấy, chúng ta hãy đọc bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh – một nhà phê bình văn học có uy tín lớn.

Văn bản được viết năm 1936 (in trong sách Văn chương và hành động). Đây là tác phẩm thuộc thể nghị luận văn chương, bàn về những vấn đề thuộc văn chương, khác bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là văn chính luận bàn về vấn đề chính trị xã hội… Vì là đoạn trích trong một bài nghị luận dài nên văn bản chúng ta được học không gồm ba phần hoàn chỉnh: đặt, giải quyết và kết thúc vấn đề. Nổi bật trong văn bản là ba nội dung quan trọng mà tác giả Hoài Thanh gọi chung là Ý nghĩa văn chương: nguồn gốc, nhiệm vụ của văn chương nói chung, của các tác phẩm thơ, văn, kịch nói riêng.

Đi vào văn bản, chúng ta bắt gặp ngay ở phần đầu một câu chuyện đời xưa thú vị. Từ câu chuyện ấy, tác giả giải thích nguồn gốc của văn chương. Theo Hoài Thanh, “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài”. Quan niệm ấy đúng không? Rất đúng, nhưng không phải là duy nhất. Có nhiều nhà lí luận giải thích: Văn chương bắt nguồn từ lao động, hoặc văn chương bắt nguồn từ những nỗi đau, những khát vọng cao cả của con người… Tuy ý kiến của Hoài Thanh khác với các quan niệm trên, nhưng không đối lập, không loại trừ nhau. Ngược lại, ý kiến của ông đã bổ sung, làm giàu thêm cho một vấn đề quan trọng trong lí luận về nguồn gốc của văn chương. Do đó, tác giả dùng từ cốt yếu sau từ nguồn gốc để chỉ rõ nguồn gốc chính, nguồn gốc quan trọng của văn chương là lòng thương… Đây là một cách nói mềm dẻo, khéo léo, không áp đặt, cũng không khẳng định quan niệm của mình là bao quát mọi quan niệm khác. Từ ý kiến của Hoài Thanh, tiếp tục suy nghĩ và học tập, lên các lớp trên, chắc chúng ta sẽ được biết sâu thêm về vấn để này.

Từ một câu văn ngắn gọn giải thích nguồn gốc văn chương, nhà văn giải thích tiếp: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Hai câu văn cô đọng nêu ra nhiệm vụ, chức năng cơ bản của văn chương, tập trung trong hai cụm từ “hình dung của sự sống”, “sáng tạo ra sự sống”. Điều đó nghĩa là gì? Phải chăng tác giả muốn nói: Vãn chương có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống? Ở đây, hình dung là danh từ, nó có nghĩa như hình ảnh, kết quả của sự phản ánh, sự miêu tả trong văn chương. Hai câu thơ của Bác Hồ “Tiếng suối trong như tiếng hát xa – Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” (Cảnh khuya) đã hình dung, phản ánh, tái hiện bức tranh phong cảnh đêm rừng Việt Bắc tuyệt đẹp. Hay qua bài Sài Gòn tôi yêu, tác giả Minh Hương cũng đã hình dung cảnh và người, sự sống rất đáng yêu của mảnh đất Sài Gòn ngọc ngà xưa và nay.

Cách hình dung, cách tái hiện, phản ánh cuộc sống của văn chương vô cùng phong phú, muôn hình vạn trạng đúng như Hoài Thanh nói. Mỗi nhà văn, nhà thơ có cách phản ánh, cách hình dung lại sự sống riêng tuỳ thuộc vốn sống, tài năng và tâm hồn của mình. Tâm hồn của con người thì bao la, vô tận. Do đó, Hoài Thanh viết: “Vũ trụ này tầm thường, chật hẹp, không đủ thỏa mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác”. Đó cũng là nhiệm vụ của văn chương: nhiệm vụ sáng tạo. Điều ấy nghĩa là gì? Nghĩa là: qua các áng văn chương, bằng trí tưởng tượng bay bổng, bằng khát vọng tốt lành, nhà văn dựng nên bức tranh thiên nhiên, bức tranh đời sống vượt trên thực tế, đẹp hơn cuộc đời thực tại. Nguyễn Trãi chẳng hạn.

Miêu tả cảnh đêm rừng Việt Bắc trong bài Cảnh khuya, nhà thơ Hồ Chí Minh mong muốn cuộc kháng chiến lúc bấy giờ sớm thành công để núi rừng Việt Bắc, Tổ quốc Việt Nam sẽ đẹp hơn, cuộc sống của nhân dân sẽ hạnh phúc hơn. Ca ngợi mảnh đất và con người Sài Gòn trong bài Sài Gòn tôi yêu, nhà văn Minh Hương mong muốn “mọi người đều yêu Sài Gòn như tôi”. Tình yêu sẽ thúc đẩy con người làm được nhiều điều tốt đẹp. Yêu Sài Gòn, “mọi người” – trong đó có nhà văn – và bạn đọc sẽ góp phần tích cực tạo ra một Sài Gòn đẹp hơn, đáng yêu hơn. Sau những áng văn chương, sự sống bao giờ cũng được nối dài, được phát triển trong tâm hồn, ý chí, khát vọng và hành động của bạn đọc… Phải chăng đây chính là nhiệm vụ “sáng tạo sự sống” của văn chương như Hoài Thanh quan niệm.

Nghĩa là văn chương có khả năng lay động tâm hồn, giúp ta biết chia sẻ buồn, vui, đau khổ, hạnh phúc… với mọi người, dắt chúng ta sống gần với nhau hơn trong tình nhân ái, tình thương yêu, đoàn kết giữa con người với con người… “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Rõ ràng, văn chương đã bồi đắp tình cảm tốt đẹp cho người đọc, làm giàu thêm thế giới tâm hồn của chúng ta. Không những thế, văn chương còn góp phần tô điểm biết bao sắc màu, âm thanh làm cho thế giới, con người, cuộc sống được tốt đẹp hơn, đáng yêu hơn. […] Từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay… Hoài Thanh viết như thế, đã nhấn mạnh thêm công dụng của văn chương. Hiểu và suy ngẫm những ý kiến ấy, rồi liên tưởng tới các áng văn chương đã được đọc, được học, ta thấy quả đúng như vậy. Đọc những bài ca dao tình nghĩa con người, ta càng thêm yêu ông bà, cha mẹ ta hơn.

Qua những bài ca, những câu hát than thân, ta càng hiểu rõ và càng thương cha ông ta, nhất là những người chị, người mẹ Việt Nam ngày xưa. Tương tự như thế, đọc chùm thơ Đường của Lí Bạch, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ, tình yêu quê hương của chúng ta được bồi đắp bởi những cung bậc rung động thật tinh tế. Qua hai bài kí: Một thứ quà của lúa non: Cốm, Mùa xuân của tôi, ta thấm thìa thêm biết bao vẻ đẹp của cây lúa Việt Nam, của mùa xuân Hà Nội, mùa xuân Tổ quốc ta,… Kể sao cho hết, dẫn sao cho cùng những tác dụng, những công dụng kì diệu của văn chương! Rõ ràng, văn chương đã bồi đắp cho chúng ta biết bao tình cảm trong sáng, hướng ta tới những điều đúng, những điều tốt và những cái đẹp. Văn chương góp phần tôn vinh cuộc sống của con người. Có nhà lí luận nói chức năng của văn chương là đem lại cho con người, hướng con người tới những điều “Chân, Thiện, Mĩ”. Hoài Thanh, tuy không dùng những từ mang tính khái quát như thế, nhưng qua những lí lẽ giản dị, kết hợp những cảm xúc nhẹ nhàng và lời văn giàu hình ảnh, cũng đã nói được khá đầy đủ công dụng, hiệu quả, tác dụng của văn chương. Nói khác đi, bài viết của Hoài Thanh là những lời đẹp, những ý hay ca ngợi văn chương, tôn vinh tài hoa và công lao của các văn nghệ sĩ.

“Nếu pho lịch sử loài người xoá các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bậc nào…!”. Câu cuối văn bản thật thú vị. Tác giả vừa như muốn khẳng định vai trò kì diệu của văn nghệ sĩ vừa nhấn mạnh ý nghĩa của văn chương. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta hãy biết ơn các nhà văn, hãy quý trọng các áng thơ văn nói riêng và văn chương nói chung. Đó là một câu văn hàm nhiều nghĩa, buộc chúng ta phải tiếp tục suy ngẫm…

Tóm lại, với một lối văn nghị luận vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc và hình ảnh, Hoài Thanh đã cho rằng: nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là hình dung của sự sống và sáng tạo ra sự sống, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho chúng ta. Nếu lịch sử nhân loại xoá bỏ văn chương thì sự sống sẽ nghèo nàn vô cùng. Quan niệm như thế có thể là chưa đầy đủ, nhưng đã có những điều cơ bản và đúng đắn, giúp cho chúng ta hiểu rõ: nguồn gốc, nhiệm vụ và công dụng của văn chương. Nhờ đó, chúng ta đọc văn, học văn, hiểu và suy ngẫm về văn chương được sáng tỏ và sâu sắc hơn.