Top 5 # Ý Nghĩa Tên Việt Dũng Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 4/2023 # Top Trend | Uplusgold.com

Tên Trịnh Việt Dũng Ý Nghĩa Gì, Tốt Hay Xấu?

Gợi ý một số tên gần giống đẹp nhất:

Luận giải tên Trịnh Việt Dũng tốt hay xấu ?

Thiên Cách là đại diện cho cha mẹ, bề trên, sự nghiệp, danh dự. Nếu không tính sự phối hợp với các cách khác thì còn ám chỉ khí chất của người đó. Ngoài ra, Thiên cách còn đại diện cho vận thời niên thiếu.

Thiên cách tên của bạn là Trịnh có tổng số nét là 10 thuộc hành Âm Thủy. Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ ĐẠI HUNG (Quẻ Tử diệt hung ác): Là quẻ hung nhất, đại diện cho linh giới (địa ngục). Nhà tan cửa nát, quý khóc thần gào. Số đoản mệnh, bệnh tật, mất máu, tuyệt đối không được dùng

Địa cách còn gọi là “Tiền Vận” (trước 30 tuổi) đại diện cho bề dưới, vợ con, và thuộc hạ, người nhỏ hơn mình, nền móng của người mang tên đó. Về mặt thời gian trong cuộc đời, Địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận.

Địa cách tên bạn là Việt Dũng có tổng số nét là 17 thuộc hành Dương Kim. Địa cách theo tên sẽ thuộc quẻ CÁT (Quẻ Cương kiện bất khuất): Quyền uy cương cường, ý chí kiên định, khuyết thiếu hàm dưỡng, thiếu lòng bao dung, trong cương có nhu, hóa nguy thành an. Nữ giới dùng số này có chí khí anh hào.

Nhân cách: Còn gọi là “Chủ Vận” là trung tâm của họ và tên, vận mệnh của cả đời người do Nhân Cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Giống như mệnh chủ trong mệnh lý, Nhân cách còn là hạt nhân biểu thị cát hung trong tên họ. Nếu đứng đơn độc, Nhân cách còn ám chỉ tính cách của người đó. Trong Tính Danh học, Nhân cách đóng vai trò là chủ vận.

Nhân cách tên bạn là Trịnh Việt có số nét là 19 thuộc hành Dương Thủy. Nhân cách thuộc vào quẻ HUNG (Quẻ Tỏa bại bất lợi): Quẻ đoản mệnh, bất lợi cho gia vận, tuy có trí tuệ, nhưng thường hay gặp hiểm nguy, rơi vào bệnh yếu, bị tàn phế, cô độc và đoản mệnh. Số này có thể sinh ra quái kiệt, triệu phú hoặc dị nhân.

Ngoại cách chỉ thế giới bên ngoài, bạn bè, người ngoài xã hội, những người bằng vai phải lứa, quan hệ xã giao. Vì mức độ quan trọng của quan hệ giao tiếp ngoài xã hội nên Ngoại cách được coi là “Phó vận” nó có thể xem phúc đức dày hay mỏng.

Ngoại cách tên của bạn là họ Dũng có tổng số nét hán tự là 8 thuộc hành Âm Kim. Ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ BÁN CÁT BÁN HUNG (Quẻ Kiên nghị khắc kỷ): Nhẫn nại khắc kỷ, tiến thủ tu thân thành đại nghiệp, ngoài cương trong cũng cương, sợ rằng đã thực hiện thì không thể dừng lại. Ý chí kiên cường, chỉ e sợ hiểm họa của trời.

Tổng cách (tên đầy đủ)

Tổng cách thu nạp ý nghĩa của Thiên cách, Nhân cách, Địa cách nên đại diện tổng hợp chung cả cuộc đời của người đó đồng thời qua đó cũng có thể hiểu được hậu vận tốt xấu của bạn từ trung niên trở về sau.

Tên đầy đủ (tổng cách) gia chủ là Trịnh Việt Dũng có tổng số nét là 26 thuộc hành Dương Mộc. Tổng cách tên đầy đủ làquẻ HUNG (Quẻ Ba lan trùng điệt): Quát tháo ầm ĩ, biến quái kỳ dị, khổ nạn triền miên, tuy có lòng hiệp nghĩa, sát thân thành nhân. Quẻ này sinh anh hùng, vĩ nhân hoặc liệt sĩ (người có công oanh liệt). Nữ giới kỵ dùng số này.

Mối quan hệ giữa các cách

Số lý của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Dương Thủy” Quẻ này là quẻ Ham thích hoạt động, xã giao rộng, tính hiếu động, thông minh, khôn khéo, chủ trương sống bằng lý trí. Người háo danh lợi, bôn ba đây đó, dễ bề thoa hoang đàng.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Âm Thủy – Dương Thủy – Dương Kim” Quẻ này là quẻ : Thủy Thủy Kim.

Đánh giá tên Trịnh Việt Dũng bạn đặt

Bạn vừa xem xong kết quả đánh giá tên Trịnh Việt Dũng. Từ đó bạn biết được tên này tốt hay xấu, có nên đặt hay không. Nếu tên không được đẹp, không mang lại may mắn cho con thì có thể đặt một cái tên khác. Để xem tên khác vui lòng nhập họ, tên ở phần đầu bài viết.

Tên Con Nguyễn Việt Dũng Có Ý Nghĩa Là Gì

Về thiên cách tên Nguyễn Việt Dũng

Thiên Cách là đại diện cho mối quan hệ giữa mình và cha mẹ, ông bà và người trên. Thiên cách là cách ám chỉ khí chất của người đó đối với người khác và đại diện cho vận thời niên thiếu trong đời.

Thiên cách tên Nguyễn Việt Dũng là Nguyễn, tổng số nét là 7 và thuộc hành Dương Kim. Do đó Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn là quẻ CÁT. Đây là quẻ có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành.

Xét về địa cách tên Nguyễn Việt Dũng

Ngược với thiên cách thì địa cách đại diện cho mối quan hệ giữa mình với vợ con, người nhỏ tuổi hơn mình và người bề dưới. Ngoài ra địa cách còn gọi là “Tiền Vận” ( tức trước 30 tuổi), địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận tuổi mình.

Địa cách tên Nguyễn Việt Dũng là Việt Dũng, tổng số nét là 17 thuộc hành Dương Kim. Do đó địa cách sẽ thuộc vào quẻ Cương kiện bất khuất là quẻ CÁT. Đây là quẻ quyền uy cương cường, ý chí kiên định, khuyết thiếu hàm dưỡng, thiếu lòng bao dung, trong cương có nhu, hóa nguy thành an. Nữ giới dùng số này có chí khí anh hào.

Luận về nhân cách tên Nguyễn Việt Dũng

Nhân cách là chủ vận ảnh hưởng chính đến vận mệnh của cả đời người. Nhân cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Nhân cách là nguồn gốc tạo vận mệnh, tích cách, thể chất, năng lực, sức khỏe, hôn nhân của gia chủ, là trung tâm của họ và tên. Muốn tính được Nhân cách thì ta lấy số nét chữ cuối cùng của họ cộng với số nét chữ đầu tiên của tên.

Nhân cách tên Nguyễn Việt Dũng là Nguyễn Việt do đó có số nét là 16 thuộc hành Âm Thổ. Như vậy nhân cách sẽ thuộc vào quẻ Trạch tâm nhân hậu là quẻ CÁT. Đây là quẻ quyền uy cương cường, ý chí kiên định, khuyết thiếu hàm dưỡng, thiếu lòng bao dung, trong cương có nhu, hóa nguy thành an. Nữ giới dùng số này có chí khí anh hào.

Về ngoại cách tên Nguyễn Việt Dũng

Ngoại cách là đại diện mối quan hệ giữa mình với thế giới bên ngoài như bạn bè, người ngoài, người bằng vai phải lứa và quan hệ xã giao với người khác. Ngoại cách ám chỉ phúc phận của thân chủ hòa hợp hay lạc lõng với mối quan hệ thế giới bên ngoài. Ngoại cách được xác định bằng cách lấy tổng số nét của tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách.

Tên Nguyễn Việt Dũng có ngoại cách là Dũng nên tổng số nét hán tự là 8 thuộc hành Âm Kim. Do đó ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ Kiên nghị khắc kỷ là quẻ BÁN CÁT BÁN HUNG. Đây là quẻ quyền uy cương cường, ý chí kiên định, khuyết thiếu hàm dưỡng, thiếu lòng bao dung, trong cương có nhu, hóa nguy thành an. Nữ giới dùng số này có chí khí anh hào.

Luận về tổng cách tên Nguyễn Việt Dũng

Tổng cách là chủ vận mệnh từ trung niên về sau từ 40 tuổi trở về sau, còn được gọi là “Hậu vận”. Tổng cách được xác định bằng cách cộng tất cả các nét của họ và tên lại với nhau.

Do đó tổng cách tên Nguyễn Việt Dũng có tổng số nét là 23 sẽ thuộc vào hành Dương Hỏa. Do đó tổng cách sẽ thuộc quẻ Tráng lệ quả cảm là quẻ CÁT. Đây là quẻ khí khái vĩ nhân, vận thế xung thiên, thành tựu đại nghiệp. Vì quá cương quá cường nên nữ giới dùng sẽ bất lợi cho nhân duyên, nếu dùng cần phối hợp với bát tự, ngũ hành.

Quan hệ giữa các cách tên Nguyễn Việt Dũng

Số lý họ tên Nguyễn Việt Dũng của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Âm Thổ” Quẻ này là quẻ Ngoài mặt hiền hoà mà trong lòng nghiêm khắc giàu lòng hiệp nghĩa, người nhiều bệnh tật, sức khoẻ kém. Giỏi về các lĩnh vực chuyên môn, kiến thức chỉ có chiều sâu, không thích chiều rộng. Khuyết điểm là đa tình hiếu sắc, dễ đam mê.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim – Âm Thổ – Dương Kim” Quẻ này là quẻ Kim Thổ Kim: Có thể thành công và sự nghiệp gặp nhiều thuận lợi, đạt được mục đích, cơ thể khỏe mạnh, có cuộc sống hạnh phúc và sự vinh (cát).

Kết quả đánh giá tên Nguyễn Việt Dũng tốt hay xấu

Như vậy bạn đã biêt tên Nguyễn Việt Dũng bạn đặt là tốt hay xấu. Từ đó bạn có thể xem xét đặt tên cho con mình để con được bình an may mắn, cuộc đời được tươi sáng.

Quanlambao : Tiểu Sử Của Tên Việt Gian Nguyễn Tấn Dũng

QUANLAMBAO : Tiểu sử của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng

Tiểu sử của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng

Theo tiểu sử chính thức của tên Việt gian này thì Việt gian Nguyễn Tấn Dũng bí danh Ba Dũng là con của tướng Nguyễn Tấn Minh nhưng cả nước biết tên Việt gian Ba Dũng này mồ côi cha rất sớm và trở thành con nuôi của Đại Tướng Lê Đức Anh. Việt gian Nguyễn Tấn Dũng sinh ngày 17/11/1949 tại thị xã Cà Mau và đúng ngày sinh nhật thứ 12, tức ngày 17/11/1961, gia nhập quân đội cộng sản, làm giao liên, cứu thương, y tá, rồi bộ binh và công an. Chi tiết này đáng chú ý: theo công pháp quốc tế việc tuyển dụng thiếu nhi vào quân đội là một tội ác, cuộc đời Nguyễn Tấn Dũng đã bắt đầu một cách bệnh hoạn, rất trái ngược với giáo dục mà một người lãnh đạo quốc gia hiện đại phải có.‘Món quà quý giá’ Của Thủ Tướng NTD mừng quốc khánh TQ! ‘Cá 1 ăn 100 y tá về ‘đuổi gà’! NTD – Con tàu sắp chìm -P2 Nguyễn Tấn Dũng – Diễn viên đại tài Nguyễn Tấn Dũng -Con tàu sắp chìm Thủ tướng thoát tội nhờ tâm linh… Thủ Tướng bỗng hoá con mèo ướt! ‘Ma xó’ Nguyễn Tấn Dũng lại bịt miệng nhân dân Nguyễn Tấn Dũng -Hít-le của thế kỷ 21! Tiểu sử chính thức của tên Việt gian đã rất mơ hồ trong giai đoạn 1961-1981. Chỉ thấy nói tên Việt gian này được thăng lên cấp bậc thiếu tá bộ binh vào tháng 9/1981, lúc 32 tuổi. Không thấy nói vào ngày 30/4/1975 tên Việt gian này đang có cấp bậc nào và giữ chức vụ gì. Các nguồn tin đáng tin cậy cho biết lúc đó tên Việt gian này chỉ là một hạ sĩ quan công an. Sự nghiệp của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng chỉ bắt đầu thăng tiến tốc hành khi cha nuôi của hắn, Lê Đức Anh, lọt mắt xanh của Lê Đức Thọ và được thăng chức vùn vụt từ đại tá năm 1974 lên đại tướng năm 1979.

Tiểu sử chính thức của Nguyễn Tấn Dũng càng mơ hồ, và phải nói thẳng là dối trá, trong giai đoạn 1981-1994. Chỉ thấy nói tên Việt gian này được đi học trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, nhưng lúc nào và trong bao lâu? Lại thấy ghi là tên Việt gian này đậu cử nhân luật, nhưng học ở đâu và bao giờ? Sự thực là Nguyễn Tấn Dũng chỉ được gửi đi học trường Đảng Nguyễn Ái Quốc cho có lệ, như một thủ tục bắt buộc của các cán bộ trẻ muốn được vào trung ương Đảng chứ Nguyễn Tấn Dũng chẳng học hành gì cả. Thực tế tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là một mẫu người cán bộ không có học vấn như những lãnh tụ cộng sản trước. Về điểm này Nguyễn Tấn Dũng rất khác với Nguyễn Minh Triết, một người có học vấn thực sự.

Trong giai đoạn 1981-1993 tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng lên chức ào ạt nhờ Lê Đức Anh đã trở thành cánh tay mặt của Lê Đức Thọ, hắn lên tới cấp bậc trung tướng và trở thành thứ trưởng thứ nhất bộ công an. Điều dối trá của tiểu sử chính thức là nó đã mô tả Nguyễn Tấn Dũng như một cán bộ làm công tác Đảng và công tác hành chính. Thực sự thì trong giai đoạn 1981-1987 Nguyễn Tấn Dũng là trưởng công an huyện Hà Tiên và được giao một công tác cực kỳ quan trọng: làm kinh tài cho Đảng bằng cách tổ chức buôn lậu tại của biển Hà Tiên. Những ai từng ở Rạch Giá trong giai đoạn này đều đã thấy mỗi đêm cửa biển Hà Tiên rực sáng vì hàng ngàn thuyền buôn lậu Thái Lan đến đậu ngoài khơi với đủ thứ hàng chờ các thuyền con từ đất liền ra “ăn hàng”. Trong thời gian này tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng cũng đã lập một thành tích lớn và được phong “anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” nhờ gài bẫy bắt được Trần Văn Bá, cũng về cửa biển Hà Tiên buôn lậu lấy tài chính cho tổ chức kháng chiến Lê Quốc Túy.

Cần lưu ý là trước đó, trong các năm 1976-1977 Nguyễn Tấn Dũng, dưới lệnh của Võ Văn Kiệt và Võ Viết Thanh cùng đã tham gia vào một tội ác đẫm máu khác: thành lập tổ chức kháng chiến giả mang tên là “Đảng Việt Nam Phục Quốc” để gài bẫy bắt những thanh niên miền Nam chống chế độ cộng sản. Hàng ngàn thanh niên đã sa lưới, và dù họ chỉ là những thanh niên ngây thơ bị mắc lừa nhiều người đã bị xử bắn.‘Thách đấu’ Thủ Tướng về điều hành kinh tế Vĩ mô‘Thách đấu’ Thủ Tướng về Tái cấu trúc NH ‘Hiệp sĩ’ Tràn Hưng Quốc ‘thách đấu’ Thủ Tướng về các ‘Quả đấm thép’ ‘Thách đấu’ Thủ Tướng Những điều Đảng viên không được làm ‘Thách đấu’ Thủ Tướng trên võ đài Thủ Tướng lại lãng phí của dânThủ Tướng bị ‘Lừa’! ‘Luật 7169’ lê máy chém khắp Việt NamKH biến CTN thành ‘Kẻ phản Quốc’ Ghê rợ sau VB 7169 của Thủ Tướng Ngươi là ai mà chống Luật Biển? Giải mã lá phiếu chống Luật Biển đông Lộ mặt kẻ hán gián, bán nước Không phải Quan điểm VP CTN THủ Tướng YC xử lý Quan làm báo! Cũng cần lưu ý là tham nhũng đã lên rất cao trong giai đọan 2001-2006, nhiệm kỳ 9 của Ban Cháp hành trung ương ĐCSVN. Trong giai đoạn này tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là ủy viên bộ chính trị và phó thủ tướng trực, quyền hành vượt hẳn tên Việt gian thủ tướng mờ nhạt Phan Văn Khải. Chính Nguyễn Tấn Dũng phải chịu trách nhiệm lớn nhất về quốc nạn tham nhũng, nhưng hiện nay tên Việt gian xảo quyệt này lại trâng tráo tự xưng là một người quyết tâm chống tham nhũng. Tóm lại sự nghiệp của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là sự nghiệp của một con ông cháu cha trong Đảng, không trải qua gian nguy, không đạo đức và cũng chẳng có kiến thức và khả năng nào, nhưng đã được áp đặt vào địa vị lãnh đạo tối cao không khác gì một thái tử ngu xuẩn dưới các chế độ quân chủ. Sự nghiệp của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là một bất công lớn đối với chính các Đảng viên cộng sản khác, một chuỗi dài những gian dối và tội ác, và chính bàn tay tên Việt gian này cũng đẫm máu.

Trong kế hoạch chuẩn bị đưa tên Việt gian lên cầm quyền Đảng MA đã nhiều khi có những biện pháp thách đố như đưa tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng lên làm thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước dù tên Việt gian hoàn toàn không biết gì về kinh tế tài chính. Nguyễn Tấn Dũng còn tệ hơn nhiều so với Đỗ Mười và Lê Đức Anh vì ít ra những tên này còn có đảm lược, còn vào sinh ra tử. Những người có bản lãnh còn hy vọng có thể dám sửa sai khi nhận ra sự lầm lẫn: những sản phẩm của những đặc ân và gian trá như Nguyễn Tấn Dũng chỉ có thể cố thủ trong sự gian trá. Trong hơn một năm qua Nguyễn Tấn Dũng đã làm gì? Ông chưa giải quyết được một hồ sơ tham nhũng lớn nào cả như tên Việt gian đã hứa lúc lên cầm quyền, trong vụ PMU 18 tên Việt gian này đã không giải quyết mà còn che đậy một cách trắng trợn.

Tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng đã phát động đợt đàn áp qui mô nhất từ nhiều năm nay và những phiên tòa dưới chính quyền của tên Việt gian đã phá mọi kỷ lục thô bạo. Bộ máy tuyên truyền của Đảng đánh bóng tên Việt gian này như một người dám nói, dám làm nhưng tên Việt gian đã dám làm gì? Việc dám làm nổi bật nhất gần đây của tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng là đưa lên chức chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao một trung tướng công an, tên Trương Hòa Bình. Nhân vật Trương Hòa Bình này không khác Nguyễn Tấn Dũng bao nhiêu: cách đây một năm mới chỉ là đại tá bị nhiều sĩ quan công an tố giác về cả khả năng lẫn đạo đức, nhưng vẫn được thăng chức vùn vụt, biết đâu chẳng sẽ là giải pháp của Đảng MA cho giai đoạn “hậu” Nguyễn Tấn Dũng?

Với thế lực hiện nay nếu muốn làm gì tên Việt gian này đã có thể làm rồi. Càng không nên chờ đợi ở Nguyễn Tấn Dũng những bước tiến đột phá trong chiều hướng dân chủ hóa hay thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Tên Việt gian Nguyễn Tấn Dũng dứt khoát không phải là người của những thay đổi này, trái lại là một trở ngại, và một trở ngại lớn. Người ta không thể hy vọng gì ở tên Việt gian này. Điều mà người ta có thể hy vọng là sau khi hai tên Việt gian Đỗ Mười và Lê Đức Anh không còn nữa, Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị thay thế bởi một người có khả năng và sáng suốt hơn tên Việt gian này, điều này rất có thể xảy ra vì sự nghiệp của Nguyễn Tấn Dũng chỉ thuần túy do hai tên Việt gian này áp đặt. Đó sẽ là một may mắn thực sự cho đất nước. Trở lại công việc trước mắt, có thể thấy là cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta nên và cần chuẩn bị để biểu lộ sự phẫn nộ phải có đối với một con người độc ác, với bàn tay đẫm máu, tác giả của những đàn áp thô bạo đối với anh em dân chủ trong nước.Đỗ Minh Ngọc Sự hành hình người dân vô tội của Nguyễn Tấn Dũng… Giải mã “Ai cõng rắn cắn gà nhà”? Thủ Tướng ‘Quên’! 4 câu hỏi cho TƯ 6 Trông đợi gì vào Cuộc họp BCT sắp tới? Cảnh giác với Nguyễn Tấn Dũng Những giây phút cuối cùng của con Quái vật Từ các HN TƯ Đảng đến các ‘Trận đấu’ ‘TÌNH BÁO’ hay ‘GIÁN ĐIỆP’?Chủ tịch nước có phải là ‘Thiên Tử’? TBT:Có thể phải loại bỏ CB… CHÍNH TRƯỜNG VN NHỮNG NGÀY QUA Công bố thư của TKy TBT XinChủ tịch nước diệt sâu chúa Tậpđoàn Trần Thái là ai? CASINOlậu của gia đình Thủ Tướng Lãnhtụ thành con tin NhàThủ Tướng sẽ bị khám? Chủtịch Sabeco là ai? QuỷSa-Tăng phải xuống địa ngục! Gótchân A-sin của Thủ Tướng Chiêubài ổn định or ‘ ghế’ Tổng Thống? Cuộchôn nhân ma quỷ NgườiViệt đổ tiền vào đâu? ThủTướng in tiền cứu gái RƯỢU? ThủTướng cướp tiền của DÂN xoá nợVinashin xử tội gì Congái hưởng phúc cha Vạchtrần sự dối trá ‘Vuakhông ngai’ xin tỵ nạn Đằngsau tái cấu trúc 9 NH BịtMiệng nhân dân ThủTướng & Nhóm thâu tóm Tạisao Nguyễn Tấn Dũng thoát lưới Vinashin? Hôbiến nợ xấu cho Vinashin Dấu ấnNguyễn Tấn Dũng CÙNG CHƠIBÀI Ù! BÃO NỔI LÊNRỒI Tạisao Thủ tướng ‘ÔM’ Tập đoàn

Đảng Cộng Sản Việt Nam Dũng Cảm Vượt Lên Chính Mình, Làm Nên Lịch Sử

Đảng Cộng sản Việt Nam dũng cảm vượt lên chính mình, làm nên lịch sử

Năm 1960 tại diễn văn kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, khi khái quát những thành tựu đã đạt được, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Với tất cả tinh thần khiêm tốn của những người cách mạng chúng ta vẫn có quyền nói Đảng ta thật vĩ đại!

Những năm 20 của thế kỷ trước, trong thân phận đất nước nô lệ dưới ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa thực dân Pháp, xã hội ta khi ấy rất cần có một cuộc cách mạng giải phóng nhưng vì thiếu đường lối, phương hướng, tổ chức đúng đắn nên chưa thể thực hiện được. Trong bối cảnh lịch sử ấy, năm 1911, Việt Nam xuất hiện một người thanh niên, dũng cảm sang phương Tây để tìm con đường cứu nước khác các bậc cha chú. Đó là Nguyễn Tất Thành, sau này trở thành lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO vinh danh.

Trong những năm 1921-1929, khi Nguyễn Tất Thành còn bôn ba hải ngoại, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập và tìm đường giải phóng dân tộc thì trong nước đã có 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (17-6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (mùa thu 1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (01-01-1930). 3 tổ chức cùng theo chủ nghĩa cộng sản, cùng có mục đích đấu tranh chống đế quốc phong kiến, giành độc lập cho đất nước, nhưng chia rẽ, không kết thành một khối mà còn tranh giành ảnh hưởng, đả kích lẫn nhau.

Ngày 27-10-1921, Nguyễn Ái Quốc, thành viên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động trong tổ chức cộng sản quốc tế; được Quốc tế cộng sản phái về làm nhiệm vụ tập hợp các tổ chức cộng sản ở Đông Dương thành một đảng thống nhất. Như vậy, để có một đảng cách mạng chân chính thống nhất làm nên sự nghiệp vĩ đại như ngày nay thì ngay từ trong trứng nước, trong phôi thai, những người cộng sản Việt Nam đã phải dũng cảm vượt lên chính mình để khắc phục tệ bè phái, cục bộ.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930. Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản diễn ra từ ngày 3 đến ngày 07-2-1930 tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, nay là Hồng Kông, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Các thành viên hội nghị gồm Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng), Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng). Ngày 24-02-1930 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn tự nguyện và được chấp nhận tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một cột mốc quan trọng của sự trưởng thành, tự vượt qua chính mình, thành một tổ chức thống nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam. Lần đầu tiên đảng cách mạng nước ta có một Cương lĩnh, một Sách lược và một bản Điều lệ đúng đắn, ngắn gọn, có tầm nhìn xa, tuy nó chỉ khiêm tốn gọi là những văn bản tóm tắt. Về nhiệm vụ cách mạng, Cương lĩnh nêu rõ chủ trương chiến lược có hai cấp độ, hai bước đi, trước tiên là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” để làm cơ sở, sau đó mới “đi tới xã hội cộng sản” và nhiệm vụ cách mạng là: Đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam độc lập. Sức mạnh của cuộc cách mạng ấy bao gồm một tập hợp tất cả các giai cấp, các dân tộc đa số và thiểu số, các lực lượng tiến bộ, các nhà yêu nước; công nhân, dân cày nghèo, trí thức, tiểu tư sản, trung nông, phú nông, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc… Rõ ràng về chiến lược, sách lược, mục tiêu trước mắt và lâu dài, lực lượng cách mạng, quan hệ giai cấp và dân tộc, những vấn đề cốt tử của một đảng chân chính cách mạng ở Việt Nam đã được giải quyết rất đúng đắn, sáng suốt ngay từ buổi đầu mang tầm vóc lớn dẫn đến sự biến đổi cả một dân tộc.

Tháng 10-1930 đồng chí Trần Phú từ Liên Xô về nước, bổ sung vào BCH Trung ương lâm thời, được giao nhiệm vụ, soạn thảo Cương lĩnh mới thay thế các văn bản của Hội nghị thành lập Đảng ngày 3-2, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau khi có Cương lĩnh chính trị tháng 10-1930, dưới sự lãnh đạo và hy sinh anh dũng kế tiếp nhau của những người cộng sản, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra như cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh, khởi nghĩa Nam kỳ… Tuy thất bại, hy sinh to lớn nhưng những tấm gương yêu nước sáng ngời của Đảng đã góp phần thức tỉnh tinh thần và khí phách dân tộc. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua nhiều sóng gió, nhiều mất mát to lớn, hy sinh anh dũng, có cả những sai lầm, vấp váp nhưng không bao giờ gục ngã, vượt qua mọi trở lực khách quan và chủ quan để tiến về phía trước!

Tháng 3-1938, sau khi các đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập hy sinh thì đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Năm đó đồng chí mới 26 tuổi. Tác phẩm Tự chỉ trích của đồng chí Nguyễn Văn Cừ là một tác phẩm lý luận nổi tiếng, một sự dũng cảm công khai tự chỉ trích, dám nhận khuyết điểm với một xác tín và quyết tâm sửa chữa để tạo nên sức mạnh vượt lên, tiến về phía trước của những người chiến sĩ tiên phong, quyết tâm lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi. Tác phẩm đã chỉ rõ: Người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần chúng, dẫn đường cho quần chúng, không phải theo đuôi họ, hay phỉnh họ… Và dẫu cho có sai lầm, có thất bại thì phải có can đảm nhìn sự thật… Chúng ta không bao giờ có thể đổ lỗi rằng nguyên nhân thất bại là do quân thù đàn áp và cử tri chưa giác ngộ. Chúng ta phải biết nhìn nhận những khuyết điểm về chủ quan mà chính ta gây ra, chính ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Mùa xuân năm 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài về đến Cao Bằng. Từ ngày 10 đến 19-5-1941, Người cùng Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì Hội nghị Ban Chấp Trung ương lần thứ 8. Hội nghị này có tầm vóc lớn như một đại hội. Những vấn đề lý luận cơ bản nhất của cách mạng nước ta thời kỳ này đã được giải quyết sáng tỏ, khắc phục những biểu hiện của bệnh “ấu trĩ tả khuynh” đã mắc phải. Đó là mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; giữa dân tộc và dân chủ, giữa chiến lược và sách lược… Một luận điểm lớn mà Hội nghị này xác lập đã có giá trị tạo nên sức mạnh làm biến đổi cả các dân tộc Đông Dương là: Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.

Nghị quyết thể hiện quyết tâm khơi dậy tinh thần dân tộc, truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm của tổ tiên ta, tạo thành một mặt trận thống nhất, cả dân tộc cùng nhau xây dựng lực lượng vũ trang tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Từ đó phong trào cách mạng trong nhân dân lên rất cao. Nắm chắc tình hình thế giới và trong nước, Thường vụ Trung ương đã ra Chỉ thị lịch sử “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chủ trương và quyết định sáng suốt của Thường vụ Trung ương Đảng đã chuẩn bị chu đáo cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của Việt Nam, một thể chế dân chủ đầu tiên của Đông Nam Á.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tiến hành từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” của Tổng Bí thư Trường Chinh là một văn kiện lịch sử quan trọng, đã bổ sung, phát triển hoàn chỉnh lý luận về cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của Đảng ta. Hồ Chí Minh và Đại hội đã gọi đó là Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam.

Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng vụ Tổ quốc và Nhân dân. Như vậy, Đảng Lao động Việt Nam phải là một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là một. Chính vì vậy Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.

 Đảng lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Chính vì thế sau này Hồ Chí Minh đã viết: Chủ nghĩa Mác – Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng, “làm cho Đảng… trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”. Đảng Lao động Việt Nam đã tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi.

Năm 1954, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, hòa bình vừa được lập lại trên miền Bắc, trong xây dựng đất nước, Đảng mắc một sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Đúng như tiên lượng thiên tài của C.Mác, những người cách mạng vừa giành được một thắng lợi mới thì do không có kinh nghiệm, ngay lập tức họ lại tự tạo ra một trở lực mới phải vượt qua. Đảng đã lắng nghe phản ứng của Nhân dân, nhận ra sai lầm, kiên quyết sửa chữa, kỷ luật nghiêm khắc, thay đổi Tổng Bí thư và cách chức một số cán bộ cao cấp của Đảng…

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã bầu đồng chí Hồ Chí Minh tiếp tục làm Chủ tịch Đảng và bầu đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương. Đảng lãnh đạo Nhân dân tiếp tục làm cuộc kháng chiến vĩ đại “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Khi non sông vừa mới liền một dải, Đảng lại phải lãnh đạo quân dân cả nước tiếp tục chiến đấu bảo vệ biên giới phía Tây nam và phía Bắc, đánh bại kẻ thù mới vô cùng gian manh và độc ác.

Ngày 2-9-1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh vào cõi vĩnh hằng. Người ra đi để lại Bản Di chúc lịch sử như một Cương lĩnh tổng quát xây dựng đất nước sau ngày thống nhất.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam tiến hành từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi tên nước từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyết định đường lối chiến lược xây dựng nước Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh, vững chắc đi lên CNXH.

Trải qua 10 năm, hai nhiệm kỳ Đại hội IV tiếp đến giữa nhiệm kỳ Đại hội V của Đảng đều do đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư cho đến khi đồng chí từ trần ngày 10-7-1986. Đồng chí Trường Chinh được cử giữ chức Tổng Bí thư. Dưới sự chủ trì của đồng chí, Đảng đã chỉ rõ do chủ quan, nóng vội, duy ý chí nên Đảng đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam lại một lần nữa dũng cảm nhận ra sai lầm và đề xuất Đường lối đổi mới, khẳng định: Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn. Từ Đại hội VI (1986) tới Đại hội X (năm 2006), đã qua 5 nhiệm kỳ (lần lượt do các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh làm Tổng Bí thư. Từ Đại hội XI (2011) và Đại hội XII (2016) do đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư,

Để khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa hoàn toàn bị đẩy lùi, 2 Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) được ban hành với quyết tâm chính trị rất cao nhằm chỉnh đốn Đảng, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm làm suy thoái Đảng, mất lòng tin của Nhân dân, có nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. 2 nghị quyết ấy đã đi vào cuộc sống, tạo sự chuyển biến tích cực, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng. Một lần nữa, sự vĩ đại của Đảng chính là ở sự tự chỉ trích, tự phê bình, dũng cảm tẩy rửa khỏi đầu óc và cơ thể mình những sai lầm, thậm chí dũng cảm đưa những cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao khi phạm sai lầm, có tội ra khỏi Đảng.

91 năm – một chặng đường dài, đã bao lần đứng trước nguy nan, trải nhiều thăng trầm, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vững vàng tiến bước. Bởi trong mọi tình huống, Đảng luôn bình tĩnh, sáng suốt tiến hành tự chỉ trích, tự chỉnh đốn, tự đổi mới. Từ trong vấp ngã, sai lầm, Đảng tiếp tục tiến lên. Sự vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, sức mạnh để Đảng trở nên vĩ đại chính là như thế!

Không ai khác, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta thật vĩ đại”, 8 năm sau (năm 1968), trước khi qua đời một năm, Người tiếp tục khẳng định: Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Chống nghĩa cá nhân – kẻ thù bên trong của mỗi cán bộ, đảng viên là cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ, nhiều khi đau đớn, nhưng đó chính là nỗi đau để trở thành vĩ đại. Không có gì làm cho ta vĩ đại hơn là cơn đau vĩ đại ấy, cơn đau của sự sinh thành và phát triển.

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra các chủ trương, chính sách mới với quyết tâm chính trị rất cao. Đảng ta đang quyết tâm vượt qua chính mình để tiếp tục làm nên những thành tựu vĩ đại mới, vì Nhân dân, vì dân tộc!

PGS. Trần Đình Huỳnh Theo Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử Tâm Trang (st)